Wednesday 27 October 2010

Tôi không quan tâm tới việc người ta gọi tranh tôi là gì


Nghe toàn bộ phỏng vấn tại đây.

Rất nhiều họa sĩ có tâm trạng như chắt lấy máu của mình ra khi sáng tác, ông có bao giờ cảm thấy như vậy hay không?

Không phải là chỉ đơn thuần “có tâm trạng”, mà thậm chí nghe nói đã từng có một hoạ sĩ danh tiếng Việt Nam chắt lấy máu của mình để vẽ tranh. Rất tiếc bản gốc của bức tranh vẽ bằng máu này nay đã bị hỏng. Bây giờ chỉ còn bản chép lại, nhưng không phải bằng máu mà bằng … màu hoà với nước lã.

Tôi là người huyết áp thấp, chỉ cần mất một ít máu là đủ xây xẩm mặt mày. Tôi rất sợ phải trích máu để thử trong các lần khám sức khoẻ hàng năm ở Nhật. Mặc dù lần nào cũng được các nữ y tá người Nhật trích máu rất nhẹ nhàng, lịch sự, hầu như không đau, nhưng bao giờ tôi cũng ngoảnh mặt đi để khỏi nhìn thấy máu mình chảy vào ống nghiệm.

Rất may là tôi không có tâm trạng như chắt lấy máu của mình khi vẽ, bởi nếu có chắc tôi đã không thể vẽ vời gì được. Song tôi thường không thấy mệt mỏi trong khi tập trung vẽ. Chỉ khi nào kết thúc một sceance, lúc 2 – 3 giờ sáng thì lúc đó tôi mới cảm thấy mệt thực sự. Theo quan sát của tôi, khi nào nghệ sĩ càng đạt tới gần trạng thái quên mình hoàn toàn trong quá trình sáng tác, hay biểu diễn thì khi đó tác phẩm hay buổi trình tấu mới càng đạt tới gần đỉnh cao của sự truyền cảm. Nếu vẫn còn yêu mình, nghĩ đến mình nhiều trong khi vẽ hay chơi đàn thì đỉnh cao đó vẫn còn xa vời.

Là một tiến sĩ vật lý ông có cảm thấy các định luật khô cứng ảnh hưởng đường nét hay màu sắc trong tác phẩm của mình hay không?

Các định luật vật lý không hề khô cứng. Thành thực mà nói, hiếm khi tôi có một cảm giác thẩm mỹ về chúng. Tôi chỉ thấy sung sướng khi mình đang làm ra một điều gì đó hấp dẫn trong khi áp dụng các định luật đó. Khác với hội hoạ, kết quả của vật lý đẹp không đơn thuần chỉ vì nó đẹp mà vì nó phản ánh chân lý. Còn khi vẽ, tôi tập cho mình thói quen cắt mọi ý nghĩ tới vật lý. Chắc nó vẫn có ảnh hưởng ngầm trong tiềm thức, song đó là điều tôi không tự cảm nhận được.

Ông đang sáng tác theo trường phái nào? Siêu thực hay Huyền ảo? Và tại sao ông lại chọn khuynh hướng này?

Tôi không có chủ ý đi theo bất cứ khuynh hướng nào. Người này gọi tranh tôi là “siêu thực”, người kia bảo là “huyền ảo”. Năm ngoái tác giả Gerhard Habarta có xuất bản một “Cuốn từ điển các hoạ sĩ huyền ảo” tại Đức, dày gần 500 trang, trong đó có nói đến tôi tại trang 117. Có người không ưa tranh tôi thì bảo tranh tôi chẳng “siêu” mà cũng chẳng “thực”. Cách  đây vài hôm, một ông người Mỹ từ Hoa Kỳ đã gửi vài email cho tôi nói rằng ông ta vốn là đồ đệ của đại danh hoạ siêu thực Salvador Dalí vào những năm 1970. Ông ta đã xem tranh của tôi trên internet và rất kinh ngạc. Ông ấy muốn mua 1 – 2 bức tranh của tôi, muốn hiểu biết thêm về kỹ thuật vẽ của tôi, thậm chí còn muốn kết bạn lâu dài với tôi nữa. Theo ông ấy thì tôi không phải là hoạ sĩ siêu thực, rằng tranh của tôi, trừ một số chi tiết tương tự như trong tranh của Dalí, có một hướng đi độc đáo riêng, rằng đó là khuynh hướng “hiện thực của một cách nhìn kết hợp nghệ thuật và khoa học”. Không biết nhận xét cùa một người từng làm việc nhiều năm với Salvador Dalí và bản thân cũng là một hoạ sĩ siêu thực như ông ta có làm thất vọng những người từng “tặng” tôi “danh hiệu Salvador Dalí Việt Nam” hay không, song, nói chung, tôi không quan tâm tới việc người ta gọi tranh tôi là gì.

Có ý kiến cho rằng tranh của ông nhuốm màu lạnh nhiều hơn màu nóng, kể cả khi ông vẽ về sa mạc, ông có đồng ý với nhận xét này hay không?

Tôi không nghĩ rằng việc tôi trả lời “đồng ý” hay “không đồng ý” có một ý nghĩa gì ở đây. Nhưng nếu xem tất cả các tranh tôi đã vẽ từ 1986 tới giờ, hiện đăng trên trang web của tôi, thì có thể thấy sự thay đổi trong hội hoạ cuả tôi. Những tranh vẽ cách đây 15 – 20 năm có tông màu chung ấm hơn. Không rõ cuộc sống tự do, hoà bình, an toàn của tôi hiện nay tại đất nước mặt trời mọc, mà một người bạn của tôi gọi là “thiên đường tại hạ giới”, có ảnh hưởng thế nào tới sự thay đổi ấy. Khi vẽ, một trong những điều tôi đặc biệt quan tâm là việc chế ngự cảm xúc để đạt được điều mình muốn một cách tự nhiên nhất. Nghe tưởng như mâu thuẫn, song đó là một trong những điều khó nhất của nghệ thuật. Tôi nghĩ rằng, văn nghệ sĩ không được phép để cảm xúc của mình lấn át cái Chân, bởi nếu không có Chân thì sẽ chẳng có cả Thiện lẫn Mỹ.

Theo ông sự tự do tuyệt đối trong sáng tác có phải là tiêu chí đầu tiên của người cầm bút/cọ  hay không, và điều gì xảy ra nếu họ bị rào cản nhân danh đạo đức hay văn hóa chặn lại?

Tự Do tuyệt đối không phải là tiêu chuẩn của sáng tạo mà là điều kiện cần để có được những sáng tạo thực sự có giá trị. Albert Einstein từng nói: “Tất cả những gì thực sự vĩ đại và truyền cảm đều được sáng tạo ra bởi cá nhân lao động trong Tự Do.”

Tuy rằng nghệ thuật là do con người sáng tạo ra, song nghệ thuật là cái gì đ̣ó cao hơn cả chính người sáng tạo ra nó. Nó như cái linh của vũ trụ nhập vào một cá nhân, cái thần khí mà Tạo Hoá gửi gắm vào người nào đủ khả năng nhận được nó, để rồi sau khi tài năng này sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật, cái thần khí đó như thoát ra, tác động tới người thường ngoạn. Tiếc rằng trong lịch sử nhân loại, rất nhiều người đã không hiểu được cái linh đó của nghệ thuật. Họ dùng nghệ thuật như một thứ công cụ để phục vụ các mục đích hữu hạn ích kỷ và tầm thường của mình. Họ nhân danh nhiều thứ nhăng nhít, kể cả viện dẫn đạo đức và văn hoá mà đến bản thân họ cũng thiếu, để hù doạ hay đàn áp những người sáng tạo nên nghệ thuật. Khi điều đó xảy ra, đó là bi kịch cho các cá nhân nghệ sĩ nói riêng và thảm hoạ cho văn hoá nghệ thuật nói chung. Khi đó nghệ sĩ buộc phải lựa chọn. Một số người say sưa như lên đồng, đem tài năng và tâm huyết của mình ra tô vẽ cho bạo quyền, cho tiền bạc và danh vọng. Một số người khác vẫn đeo đuổi tiếng gọi của Nghệ Thuật tuyệt đối và hậu quả là đã phải hứng chịu bao tai họa giáng xuống họ, từ bị sỉ nhục, bị mất việc, đến bị cầm tù, bị ̣ hành hạ về thể xác. Nhiều người khác chịu cúi đầu thoả hiệp để yên phận, để tồn tại và nếu có thể thì sáng tác nên những tác phẩm gượng gạo, giả tạo. Nhiều người khác nữa rũ áo, bỏ quê hương ra đi, tới những xứ sở tôn trọng tự do biểu hiện với hy vọng sẽ đạt tới Chén Thánh. Tóm lại có nhiều cách lựa chọn: tự nguyện, hay bắt buộc, hay tự nguyện bắt buộc (volontariat forcé). Nhưng, nghệ thuật đứng trên tất cả những cái đó. Như văn hào Alexandr Soljenitsyn từng nói trong diễn từ nhận giải Nobel văn chương năm 1972 cuả mình: “Mặc cho mọi dày vò của chúng ta, Nghệ thuật vẫn không bị vấy bẩn, vẫn không vì thế mà đánh mất đi nguồn gốc của mình, vẫn luôn luôn, và trong mọi cách chúng ta dùng nó, rọi chiếu lên chúng ta một phần cái ánh sáng bí mật bên trong của nó. Nghệ thuật hé mở cho chúng ta, tuy lờ mờ, tuy ngắn ngủi, những điều không thể nào đạt được bằng lý trí. Như chiếc gương thần trong truyện cổ tích, nhìn vào nó ta không thấy chính mình mà chợt thấy một khoảnh khắc ta chẳng khi nào đạt tới, phóng tới, bay tới được. Và chỉ có tâm hồn đang thổn thức.

Chú thích:
Trên đây là nguyên văn phần tôi trả lời 5 câu hỏi RFA đã gửi cho tôi trước để chuẩn bị. Trong khi phỏng vấn, RFA có thêm một câu hỏi thứ 6 về các hoạ sĩ trẻ hiện nay ở Việt Nam. Độc giả nào quan tâm xin mời nghe tại đường link thượng dẫn.

Từ điển các hoạ sĩ huyền ảo (Lexikon der phantastischen Künstler)

Nguyễn Đình Đăng và bức tranh "Ma trân linh thiêng" (sơn dầu, 72.7 x 91 cm, 2002) được đưa vào "Từ điển các hoạ sĩ huyền ảo" (Lexikon der phantastischen Künstler), trang 117, do Gerhard Habarta biên soạn, NXB BoD - Books on Demand GmbH, Norderstedt, Germany, 2009, 464 trang.

Friday 15 October 2010

"Tôi đã chọn thồ cả vật lý lẫn hội hoạ"

Nguyễn Đình Đăng trả lời phỏng vấn của Sài Gòn Tiếp Thị

Bài này đã được đăng tại Sài Gòn Tiếp Thị, ngày 11/10/2010, mục "Giá trị sống", sau khi toà soạn đã cắt vài chỗ (phần in màu đỏ trong nguyên bản dưới đây).

Thành lập năm 1917, RIKEN ngày nay là một trong số 10 viện nghiên cứu khoa học cơ bản hàng đầu của Nhật Bản, có ngân sách khoảng 1 tỉ USD/năm, với 7 cơ sở trong nước và 6 cơ sở tại châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ. Trong số hơn 3000 nhà khoa học làm việc tại RIKEN có hơn 400 nhà khoa học nước ngoài, nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau như vật lý, hoá học, sinh vật, não, tin học v.v. Từ năm 1995 Nguyễn Đình Đăng được mời tới nghiên cứu lý thuyết cấu trúc hạt nhân nguyên tử tại cơ sở chính của RIKEN ở thành phố Wako, tỉnh Saitama. Thế nhưng trong câu chuyện với độc giả Sài Gòn Tiếp Thị, nhà vật lý hạt nhân này lại nói về một khía cạnh khác của bản thân: hội hoạ.

Chân dung tự họa
Mê vẽ và nghệ thuật từ nhỏ, song anh đã chọn học đại học về vật lý. Bây giờ nhìn lại, anh có luyến tiếc gì không? Ví dụ như nếu gia đình lúc đó khá giả, đất nước thì văn minh và nhiều giai tầng trung lưu, quý tộc hơn – anh đã toàn vẹn là một nghệ sĩ?

Tôi chọn học vật lý vì tôi cũng rất mê vật lý. Nhờ đạt điểm cao tại kỳ thi vào đại học năm 1975 tôi được sang học vật lý tại Đại học Quốc gia (ĐHQG) Moskva. Nước Nga đã mở cho tôi cánh cửa vào thế giới không chỉ của khoa học, mà còn của nghệ thuật và âm nhạc cổ điển thứ thiệt. Nếu lịch sử đã diễn ra theo một cách khác, hoặc nếu người ta có thể lựa chọn nơi mình sinh ra và lớn lên thì tôi đã không phải là tôi bây giờ nữa. Chưa chắc khi đó tôi đã vẽ được như bây giờ. Song nếu mất cơ hội để trở thành nhà vật lý, đối với tôi, sẽ thật sự là một điều đáng tiếc. Nếu bạn có tài, bạn có thể tự học để trở thành hoạ sĩ. Còn để trở thành nhà vật lý ngày nay hầu như chỉ có một con đường: tốt nghiệp đại học, bảo vệ luận án tiến sĩ, trải qua nghiên cứu tại các viện nghiên cứu hiện đại trên thế giới.

Nhưng cũng trong một bài trả lời phỏng vấn đài NHK (Nhật Bản) gần đây, anh đã tách bạch và dí dỏm về chuyện hai bán cầu não, về hai con người trong anh. Có thể cắt nghĩa hay minh chứng một chút về điều này cho độc giả quê nhà hiểu được?

Có lẽ tôi giống con lừa của Buridan ở chỗ tôi có hai đống thóc để chọn. Con lừa đã chết đói vì không biết chọn đống thóc nào để ăn. Tôi không chết đói mà cũng không bị bội thực, có lẽ vì, nhờ có cái dạ dày to và hai hàm răng khoẻ, tôi nhai ngấu nghiến một lúc cả hai đống thóc.

Nhiều người dành 4-5 năm vào đại học mỹ thuật để thành hoạ sĩ. Hẳn anh đã dành ra nhiều thời giờ hơn để tự học?

Tự học có cái hay của nó là mình học những gì thực sự thích và thấy cần thiết, không bị sức ép của thi cử, không phải học những môn vô bổ như lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô hay Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Nếu chẳng may gặp phải thầy dốt hay một chương trình đào tạo “dở hơi” thì cái sự học ở nhà trường sẽ chỉ làm phí thời gian và phí tiền, thậm chí còn có hại. Dĩ nhiên tốt nghiệp đại học mỹ thuật không có nghĩa là bạn nghiễm nhiên trở thành hoạ sĩ. Trường đại học chỉ cung cấp các kiến thức có hệ thống và một số kỹ năng cơ bản để bạn có thể bắt đầu sự nghiệp sáng tác hội hoạ của mình. Để trở thành hoạ sĩ thực thụ bạn vẫn phải tự học, tự rèn luyện, tiếp xúc, trao đổi rất nhiều.


Nếu bỏ từ “nhà vật lý”, anh hoàn toàn là một hoạ sĩ. Cuộc đấu tranh trong anh đã diễn ra như thế nào? Khi ở Liên Xô theo học vật lý, vốn bận rộn và khó khăn với một sinh viên Việt Nam, anh không dành thời giờ đi buôn để cải thiện như bao người, lại đến Bảo tàng Pushkin để tập chép tranh, phân tích và tập vẽ?

Thân lừa ưa nặng nên tôi đã chọn thồ cả vật lý lẫn hội hoạ. Những năm tôi là sinh viên, cuộc sống tại Moskva còn tương đối đầy đủ. Khi nền kinh tế của cái gọi là “chủ nghĩa xã hội phát triển” sa sút, tôi làm nghiên cứu sinh tại viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, có điều kiện nghiên cứu khoa học khá tốt, và thành phố còn có một cửa hàng nhỏ cung cấp thực phẩm cho các nhà khoa học nước ngoài, nên cũng sống ổn. Tôi chỉ tập trung vào vật lý và vẽ nên chẳng còn thì giờ cho những việc khác… như đi buôn. Nói vậy chứ đi buôn cũng phải say mê mới có hy vọng thành công. Sau nhiều cao trào, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa vật lý và hội hoạ trong tôi đã đến hồi “diễn biến hoà bình”.


Có lần anh nói mình thường mơ thấy căn phòng có nhiều đàn dương cầm. Anh có bao giờ mơ ước sẽ trở thành nghệ sĩ dương cầm? Tự nhìn nhận, anh nghĩ mức độ chơi đàn dương cầm của anh đến đâu?

Khi tôi còn bé, nhà tôi có một chiếc piano đứng, vỏ bị mọt, búa và phím lọc xọc, nhiều khi phím bị mắc cứng, dây đàn không bao giờ chuẩn. Thợ lên dây đàn không dám lên đúng cao độ tuyệt đối vì sợ nếu đứt dây sẽ khó tìm được dây thay thế. Khỏi phải nói tôi không thích tập trên chiếc đàn đó như thế nào. Tôi rất lười tập đàn, chỉ hôm trước ngày trả bài tôi mới tập. Cô giáo dạy đàn nói tôi không có tài chơi piano. Tôi cũng chưa bao giờ mơ ước mình sẽ thành pianist. Nhưng tôi rất thích nghe nhạc cổ điển. Có vẻ như tôi có đôi tai tốt, nên khi học nhạc tại trường Nghệ thuật Hà Nội tôi thường được điểm cao về ký xướng âm và ghi âm (nghe một đoạn nhạc rồi ghi lại nốt nhạc). Thời sinh viên tại Nga tôi từng là người đệm piano cho dàn đồng ca và đội múa của sinh viên - nghiên cứu sinh Việt Nam tại ĐHQG Moskva.

Tới Nhật vào năm 1994, tôi đã mua piano để dạy con trai tôi và tự tập hàng ngày. Tôi chơi piano trước công chúng mỗi năm khoảng 3 lần tại buổi trình diễn của trung tâm khí nhạc Yamaha nơi tôi học piano 5 năm nay, tại các buổi hoà nhạc tại viện Nghiên cứu Vật lý Hoá học (RIKEN), và tại khai mạc triển lãm thường niên của hội Mỹ thuật Chủ Thể. Năm nay tôi chơi Scherzo Op. 39 No. 3 của F. Chopin. Ngoài Chopin, tôi thích chơi tiểu phẩm của các nhà soạn nhạc trào lưu lãng mạn (R. Schumann, E. Grieg, S. Rachmaninov). Tôi cũng thích C. Debussy (trào lưu ấn tượng). Tuy nhiên, nếu về hội hoạ tôi đã hoàn toàn điều khiển được kỹ thuật, thì về piano tôi vẫn phải cố gắng tập luyện, mỗi ngày ít nhất khoảng 2 giờ. Có lẽ đó là lý do đôi khi tôi thấy piano hiện lên trong mơ.


Oscar Wilde (1854 – 1900) đã từng phát biểu: “Cái cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng”; anh cũng thích câu này. Tại sao anh chọn làm những việc vô dụng (như chơi đàn, vẽ tranh)?

Oscar Wilde đã giải thích câu này như sau: “Nghệ thuật là vô dụng bởi mục đích của nó đơn giản là chỉ nhằm tạo nên một tâm trạng. Nó không nhằm để chỉ dẫn hay tạo ảnh hưởng lên hành động theo bất cứ một kiểu gì (…). Nếu việc thưởng ngoạn một tác phẩm nghệ thuật lại được nối tiếp bởi một hành động dưới bất cứ hình thức nào, thì hoặc đó chỉ là một tác phẩm rất thứ cấp, hoặc người xem không cảm nhận được toàn bộ ấn tượng nghệ thuật của nó. Một tác phẩm nghệ thuật cũng vô dụng như một đoá hoa. Đoá hoa nở cho niềm sung sướng của chính nó. Chúng ta có được một khoảnh khắc sung sướng khi ngắm hoa nở. Đó là tất cả những gì có thể nói về quan hệ giữa chúng ta và hoa. Tất nhiên, người ta có thể đem hoa đi bán và thu lợi cho mình, nhưng việc đó chẳng dính dáng gì đến hoa cả. Đó không phải là một phần của bản chất của loài hoa. Đó là một sự tình cờ. Đó là một sự lạm dụng.

Tôi vẽ tranh hay chơi piano trước hết là do say mê. Vẽ một cái gì đó cho “giống” đối với tôi không phải là việc khó. Tôi muốn tự mình chơi được những bản nhạc hay bằng tiếng đàn và nhạc cảm của chính mình. Tôi nghiên cứu vật lý chủ yếu cũng do say mê và tò mò. Kết quả đối với tôi không hấp dẫn bằng quá trình đạt tới kết quả đó.


Có vài quan điểm cho rằng vật lý lượng tử và hạt nhân là gần với triết học, nghệ thuật nhất. Nếu gần như vậy, theo anh, vật lý có vô dụng không? Đã có ứng dụng gì của vật lý hạt nhân tại Việt Nam?

Vật lý vốn có tên là “triết học tự nhiên”, là khoa học nhằm tìm hiểu bí mật của vũ trụ. Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử đã đưa đến nhiều cách trình bày, suy diễn, tranh cãi về mối quan hệ giữa nhận thức và thực tế. Tuy nhiên, trong số những quan điểm đó cũng có nhiều khoa học giả hiệu (pseudoscience) kiểu “lượng tử hoá Phật giáo”. Salvador Dalí cũng đã từng định “lượng tử hoá hội hoạ”!

Bản thân tôi thấy vật lý và hội họa có một điểm chung: đều là những lĩnh vực của sự sáng tạo, trí tưởng tượng, và trực giác. Vật lý tìm hiểu quy luật của vũ trụ khách quan được tạo ra bởi Nghệ sĩ vĩ đại nhất: Tạo Hoá. Còn trong hội họa mỗi nghệ sĩ sáng tạo ra một vũ trụ của riêng mình. Theo quan điểm yếm thế thì cả vật lý lẫn nghệ thuật đương đại còn có một điểm chung nữa là đều không loại trừ xu hướng chạy theo thời thượng, mà hậu quả là sự phung phí tiền của người đóng thuế trong một số dự án nghiên cứu đầy tham vọng của vật lý và hàng loạt nghệ phẩm được “sản xuất” theo thị hiếu của thị trường.

Vật lý có rất nhiều ứng dụng trong công nghệ, đời sống. Từ bóng đèn điện, xe máy, xe hơi, tivi, internet, mobile phone, tới… đường sắt cao tốc, nhà máy điện nguyên tử - tất cả đều là ứng dụng của vật lý. Song đó không phải là mối quan tâm trực tiếp của các nhà khoa học cơ bản. Khi một thượng nghị sĩ hỏi liệu máy gia tốc nhiều triệu đô-la tại Fermilab (Hoa Kỳ) có đóng góp gì cho chương trình an ninh quốc gia, giám đốc Fermilab Robert Wilson đã trả lời: “Nó chẳng có đóng góp trực tiếp gì cho việc bảo vệ tổ quốc chúng ta, ngoài việc làm cho đất nước này xứng đáng được bảo vệ.”

Việt Nam mới nhập một máy gia tốc cyclotron 30 MeV để phục vụ y học với số vốn đầu tư hơn 500 tỉ đồng. Máy này cũng có một kênh dự định dành cho nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, tôi nghĩ cách tổ chức và tài trợ cũng như môi trường nghiên cứu khoa học tại Việt Nam hiện nay không khuyến khích, nếu không nói chỉ làm thui chột nhân tài. Một nghiên cứu sinh của tôi, sau khi tu nghiệp tiến sĩ tại RIKEN, được Quỹ tưởng niệm Nishina tài trợ làm nghiên cứu sau tiến sĩ cũng tại RIKEN, khi về nước, đã được nhận vào làm hợp đồng với lương tháng 2 triệu đồng. Lương như vậy thì hoạ may có thể sống thoi thóp, đừng nói tới nghiên cứu khoa học.


Làm một con người đa diện, có khoa học - nghệ thuật, sẽ vui hơn con người đơn điệu?

Leonardo da Vinci từng nói: “Niềm sung sướng cao quý nhất là niềm sung sướng của sự hiểu biết.” Vậy nên những người đa diện (am hiểu nhiều lĩnh vực) chắc chắn có đời sống tinh thần phong phú hơn những người… độc diện. Ông bạn tôi, Luciano Moretto, giáo sư vật lý tại Lawrence Berkeley Laboratory, là một bách khoa toàn thư sống về văn chương, lịch sử, mỹ thuật, âm nhạc. Nói chuyện với ông ta thực sự là cả một niềm sung sướng.


Nhìn lại hành trình của đời mình, trải qua những chọn lựa và đổi thay, anh có nghĩ đó là một may mắn?

Tôi cho rằng may mắn luôn có vai trò, đôi khi quyết định, trong tất cả những thành công lớn hay nhỏ mà người ta đạt được. Có lẽ tôi cũng là một người gặp may vì được cha mẹ sinh ra với một chút năng khiếu hội hoạ trời cho, rồi được cha mẹ truyền cho những cảm nhận cơ bản về văn minh, dân chủ, tự do ngay từ khi tôi còn rất bé, trong khi Việt Nam còn chìm trong khói lửa của chiến tranh, bị trói buộc bởi bao áp đặt về tư tưởng. Tôi đã gặp may vì đã thoát chết trong một trận bom Mỹ năm 1972, để sau đó ra nước ngoài du học. Đã 16 năm nay tôi được sống một cuộc đời bình thường cùng gia đình tại Nhật Bản, được tự do làm những gì mình thích, thậm chí được trả lương cho cái tự do đó, đủ để nuôi sống bản thân và vợ con. Đó chẳng phải là điều may mắn sao?

*

Nguyễn Đình Đăng sinh tại Hà Nội, tốt nghiệp vật lý đại học Quốc gia Moskva (1982), tiến sĩ (1985) và tiến sĩ khoa học (1990) về lý thuyết vật lý hạt nhân tại đại học này; từ năm 1982: nghiên cứu viên viện Khoa học kỹ thuật hạt nhân (viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam); từ năm 1995: nghiên cứu vật lý hạt nhân tại trung tâm Nishina của viện RIKEN; hội viên hội Mỹ thuật Việt Nam và hội viên hội Mỹ thuật chủ thể (Nhật Bản); tác giả và đồng tác giả của khoảng 100 công trình nghiên cứu đăng tại các tạp chí chuyên ngành (xem danh mục). Các kết quả này đã được thuyết trình ở hơn 70 hội thảo khoa học quốc tế, seminar, lớp học tại các trung tâm nghiên cứu của gần 20 nước.
Thực hiện: Hiền Hoà
9/9/2010

Friday 1 October 2010

Giá trị của nghệ thuật *)

Nguyễn Đình Đăng
Tại sao hoạ sĩ vẽ?

Vì sao có những người lao vào các hoạt động trừu tượng chẳng phải để kiếm tiền, cũng chẳng phải vì danh?

Cái gì khiến nghệ thuật cuốn hút chúng ta? Giá trị của nghệ thuật nằm ở đâu?

Hội hoạ ra đời trước khi loài người có chữ viết hàng chục ngàn năm. Người ta đã tìm thấy các bức hoạ được vẽ cách đây tới 35-40 ngàn năm trong các hang động tại châu Âu và Úc, trong khi chữ viết xuất hiện khoảng 3500 – 4000 năm về trước. Cho dù nghệ thuật đã trải qua bao cuộc bể dâu, luôn có một sợi dây vô hình nối liền các hoạ sĩ từ thời tiền sử, cổ đại, trung cố, Phục Hưng, tới hiện đại, và đương đại. Sợi dây đó là: Nghệ sĩ sáng tạo ra nghệ thuật để biểu hiện chính họ, biều hiện những gì họ cho là quan trọng, có ý nghĩa nhất, phản ánh các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của chính họ. Trong chúng ta, một số người có một sự bức thiết cần biểu hiện nội tâm qua việc tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Họ có phải là những người khác thường không? Đối với một số người trong số họ, câu trả lời là có. Bởi lẽ, để biều hiện được chính mình một cách thuyết phục, trước hết là đối với chính họ, họ cần được Trời phú cho một khả năng đặc biệt gọi là Tài năng.

Trong Lời tựa cho tiểu thuyết “Chân dung Dorian Gray” – cuốn tiểu thuyết duy nhất của mình, Oscar Wilde viết: “Cái cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng. 

Năm 1891 Bernulf Clegg, một sinh viên đại học Oxford, đã gửi thư đề nghị Oscar Widle giải thích. Trong thư trả lời, Wilde đã viết như sau (trích):

Nghệ thuật là vô dụng bởi mục đích của nó đơn giản là chỉ nhằm tạo nên một tâm trạng. Nó không nhằm để chỉ dẫn hay tạo ảnh hưởng lên hành động theo bất cứ một kiểu gì (…) Nếu việc thưởng ngoạn một tác phẩm nghệ thuật lại được nối tiếp bởi một hành động dưới bất cứ hình thức nào, thì hoặc đó chỉ là một tác phẩm rất thứ cấp, hoặc người xem không cảm nhận được toàn bộ ấn tượng nghệ thuật của nó. Một tác phẩm nghệ thuật cũng vô dụng như một đóa hoa. Đoá hoa nở cho niềm sung sướng của chính nó. Chúng ta có được một khoảnh khắc sung sướng khi ngắm hoa nở. Đó là tất cả những gì có thể nói về quan hệ giữa chúng ta và hoa. Tất nhiên, người ta có thể đem hoa đi bán và thu lợi cho mình, nhưng việc đó chẳng dính dáng gì đến hoa cả. Đó không phải là một phần của bản chất của loài hoa. Đó là một sự tình cờ. Đó là một sự lạm dụng.

Thực chất, Oscar Wilde đã diễn giải lại quan điểm về nghệ thuật tuyệt đối cuả Kant. Kant cho rằng cái Đẹp là cái gì đó không có bất kỳ một chức năng nào khác ngoài chức năng làm cái Đẹp. Khi đó một vật thể thể sẽ trở thành thuần túy là một vật thể, hiện ra hoàn toàn chỉ vì nó đẹp chứ không vì bất cứ công dụng nào khác. Như vậy nghệ thuật theo Kant là một cách biểu diễn đẹp của một hình thức, thông qua đó nghệ sĩ mặc sức tưởng tượng để liên tục mở rộng quan niệm về chính cái Đẹp. Điều đó có nghĩa là nghệ thuật đã đi ra ngoài thế giới của lý trí, và cái Đẹp là điều ta không thể cắt nghĩa được [1].
“Vô dụng” (useless) ở đây không đồng nghĩa với “Vô giá trị” (having no value). Từ “Nghệ thuật” (Art) trong nhận định “Nghệ thuật là vô dụng” (Art is useless) được dùng để chỉ “nghệ thuật sáng tạo” (creative art) hay “fine art” (mỹ thuật), tạm gọi là “nghệ thuật thuần túy” hay “nghệ thuật tuyệt đối”, ở đó nghệ sĩ dùng tài nghệ và kỹ năng để biểu hiện sáng tạo của mình. Khi xem tác phẩm do nghệ sĩ sáng tạo ra như vậy, công chúng có các rung động thẩm mỹ. Và đó là tất cả. Bởi nếu nghệ sỹ dùng tài năng của mình để làm nên một vật có chức năng nào khác ngoài sự rung động thẩm mỹ (ví dụ như một cái bình để cắm hoa, một cái ghế để ngồi, v.v., tức có một công dụng nào đó) thì ngay lập tức vật đó sẽ thuộc về đồ mỹ nghệ (craft) chứ không còn là mỹ thuật thuần túy nữa. Tương tự như vậy, nếu tài năng của nghệ sĩ được áp dụng vào quảng cáo thương mại hay kỹ nghệ thì nghệ thuật thuần túy trở thành “thiết kế” (design) hay được gọi chung là “nghệ thuật ứng dụng” (applied art). Nói tóm lại, nghệ thuật trong nhận định “Nghệ thuật là vô dụng” không có chức năng nào khác ngoài việc truyền đạt một ý tưởng.

Trong diễn từ nhận giải Nobel văn chương năm 1972, bình luận về lời tiên tri của Fyodor Dostoevsky “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”, Alexandr Solzhenitsyn đã phát biểu như sau:

Nắm giữ Nghệ thuật trong tay, chúng ta tự cho rằng mình là chủ nhân của nó, hùng hổ điều khiển nó, đổi mới nó, cải cách nó, tuyên ngôn nó, bán nó lấy tiền, dùng nó để bợ đỡ những kẻ mạnh, coi nó hoặc như trò tiêu khiển trong các ca khúc thị trường, nơi tửu quán, hoặc như hòn đá hay cái gậy, bất kể cái gì tóm được, để phục vụ các đòi hỏi chính trị thoảng qua, hay các nhu cầu xã hội hạn hẹp. Nhưng, mặc cho mọi dày vò của chúng ta, Nghệ thuật vẫn không bị vấy bẩn, vẫn không vì thế mà đánh mất đi nguồn gốc của mình, vẫn luôn luôn, và trong mọi cách chúng ta dùng nó, rọi chiếu lên chúng ta một phần cái ánh sáng bí mật bên trong của nó (…) ̣Nghệ thuật hé mở cho chúng ta, tuy lờ mờ, tuy ngắn ngủi, những điều không thể nào đạt được bằng lý trí. Như chiếc gương thần trong truyện cổ tích, nhìn vào nó ta không thấy chính mình mà chợt thấy một khoảnh khắc ta chẳng khi nào đạt tới, phóng tới, bay tới được. Và chỉ có tâm hồn đang thổn thức.

Giá trị của nghệ thuật là như vậy.

—————————–
[1] Nguyễn Đình Đăng, “Nghệ thuật là gì?”

Triển lãm Chủ Thể lần thứ 46

Triển lãm Chủ Thể lần thứ 46 đã khai mạc hôm Chủ Nhật 26/9/2010 vừa qua tại Bảo tàng Hoàng gia trong công viên Ueno (The Ueno Royal Museum) ở Tokyo. Đây là triển lãm hàng năm của hội mỹ thuật Chủ Thể (主体美術協会, thành lập năm 1964). Trong số hơn 300 tranh sơn dầu của khoảng 140 hội viên và 187 tác giả chưa phải hội viên có bức “Những con châu chấu voi bị lãng quên” của Nguyễn Đình Đăng (hội viên hội mỹ thuật Chủ Thể từ 2005).
Triển lãm mở cửa tới 1/10/2010, sau đó sẽ được gửi đi trưng bày lưu động tại bảo tàng BTMT Aichi ở Nagoya, và BTMT Kyoto.
Có thể xem một số hình ảnh của buổi khai mạc triển lãm tại đây.