Friday 5 November 2010

Đàn sếu

Tôi lợi dụng chính phản hồi của mình để tặng chị Hoài và talawas một bài ca tiễn biệt – bài “Đàn sếu”. Xin mời nghe Mark Bernes ca bài này tại đây. Những hình ảnh của video footage được trích từ phim “Khi đàn sếu bay qua” (Летят журавли) (1957) do Tatyana Samoilova và Alexei Batalov đóng vai chính.

Tôi mường tượng talawas như một trong những người lính của bài ca này – những người đã chẳng ngã xuống đất, mà biến thành sếu trắng cất cánh bay lên trời.



Đàn sếu
Thơ: Rasul Gamzatov
Nhạc: Yan Frenkel
Dịch tiếng Việt (19/9/2007): Nguyễn Đình Đăng

Tôi thường nghĩ đôi khi bao người lính
Không trở về từ bãi chiến trường xa
Đã chẳng chịu vùi thây trong lòng đất
Mà hiện hình thành sếu trắng bay qua.

Từ thuở ấy đến giờ bao năm tháng
Sếu vừa bay vừa thảng thốt gọi ta
Có phải vậy mà ta thường lặng lẽ
Ngước mắt buồn nhìn trời thẳm bao la?

Bay bay mãi ôi cánh chim vẫy mỏi
Xuyên sương mù, ngày sẽ lụi tàn thôi
Giữa bầy sếu chợt hé ra khoảng nhỏ
Phải chăng là một chỗ để cho tôi?

Rồi sẽ tới cái ngày tôi cùng sếu
Trôi giữa màu xanh thắm của thiên thu
Từ mây trắng cất tiếng chim tôi gọi
Những bạn bè trên mặt đất âm u.

Tôi thường nghĩ đôi khi bao người lính
Không trở về từ bãi chiến trường xa
Đã chẳng chịu vùi thây trong lòng đất
Mà hiện hình thành sếu trắng bay qua.

Nguyên văn lời tiếng Nga:

ЖУРАВЛИ
Музыка Я. Френкеля
Слова Р. Гамзатова

Мне кажется порою, что солдаты,
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.

Они до сей поры с времён тех дальних
Летят и подают нам голоса.
Не потому ль так часто и печально
Мы замолкаем, глядя в небеса?

Летит, летит по небу клин усталый,
Летит в тумане на исходе дня,
И в том строю есть промежуток малый,
Быть может, это место для меня.

Настанет день, и с журавлиной стаей
Я поплыву в такой же сизой мгле,
Из-под небес по–птичьи окликая
Всех вас, кого оставил на земле.

Мне кажется порою, что солдаты,
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей…

Boris Pasternak - Làm người nổi tiếng

Nguyễn Đình Đăng dịch

Thân mến tặng chị Phạm Thị Hoài và talawas bản tôi dịch bài thơ của Boris Pasternak dưới đây như một lời chia tay (*). Đây là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Pasternak. Ông đã viết bài thơ này năm 1956 – năm ông hoàn thành tiểu thuyết “Doctor Zhivago”.


Boris Pasternak (1890 - 1960)






















Hay ho gì mà làm người nổi tiếng.
Điều đó không nâng bạn cao lên.
Lo làm chi cất hồ sơ tích trữ,
Trước bản thảo của mình run rẩy kêu rên.

Mục đích sáng tạo là đem mình dâng hiến,
Đâu phải tiếng ồn ào hay sự thành công.
Thật nhục nhã khi mình vô giá trị,
Lại thành lời đàm tiếu của đám đông.

Nhưng hãy sống chẳng tự xưng tự huyễn,
Sống làm sao để khi đến cuối cùng
Nghe thấu lời tương lai đang kêu gọi,
Gửi tình yêu vào vũ trụ mênh mông.

Cũng cần phải bỏ lửng vài quãng trống
Trong số phận mình, không phải giữa văn thơ,
Những đoạn, những chương của một đời ta sống
Nguệch ngoạc gạch ra ghi dấu bên lề.

Và hãy sống chôn vùi vào quên lãng,
Giấu bước chân mình trong im lặng vô danh,
Như cảnh vật giấu mình trong sương khói,
Đâu thấy gì giữa mờ ảo vô minh.

Những kẻ khác sẽ lần theo dấu vết
Nối gót ta trên đường của ta đi,
Nhưng tự ta, ta chẳng cần phân biệt
Thất bại – thành công, nào có khác nhau chi?

Và không được, dù một giây ngắn ngủi
Từ bỏ niềm tin, phản bội chính ta,
Không lụi tàn, chỉ sống không lụi tàn, chỉ sống
Không lụi tàn cho đến lúc đi xa.

_______________

Dịch từ nguyên văn tiếng Nga, Борис Пастернак “Быть знаменитым некрасиво”, Tokyo 30/10/2010

Bản tiếng Việt © 2010 Nguyễn Đình Đăng

(*) talawas là tờ báo mạng do nhà văn Phạm Thị Hoài sáng lập năm 2001, ngừng hoạt động ngày 3/11/2010.


Mộ Boris Pasternak tại Peredelkino (Nga)


Wednesday 27 October 2010

Tôi không quan tâm tới việc người ta gọi tranh tôi là gì


Nghe toàn bộ phỏng vấn tại đây.

Rất nhiều họa sĩ có tâm trạng như chắt lấy máu của mình ra khi sáng tác, ông có bao giờ cảm thấy như vậy hay không?

Không phải là chỉ đơn thuần “có tâm trạng”, mà thậm chí nghe nói đã từng có một hoạ sĩ danh tiếng Việt Nam chắt lấy máu của mình để vẽ tranh. Rất tiếc bản gốc của bức tranh vẽ bằng máu này nay đã bị hỏng. Bây giờ chỉ còn bản chép lại, nhưng không phải bằng máu mà bằng … màu hoà với nước lã.

Tôi là người huyết áp thấp, chỉ cần mất một ít máu là đủ xây xẩm mặt mày. Tôi rất sợ phải trích máu để thử trong các lần khám sức khoẻ hàng năm ở Nhật. Mặc dù lần nào cũng được các nữ y tá người Nhật trích máu rất nhẹ nhàng, lịch sự, hầu như không đau, nhưng bao giờ tôi cũng ngoảnh mặt đi để khỏi nhìn thấy máu mình chảy vào ống nghiệm.

Rất may là tôi không có tâm trạng như chắt lấy máu của mình khi vẽ, bởi nếu có chắc tôi đã không thể vẽ vời gì được. Song tôi thường không thấy mệt mỏi trong khi tập trung vẽ. Chỉ khi nào kết thúc một sceance, lúc 2 – 3 giờ sáng thì lúc đó tôi mới cảm thấy mệt thực sự. Theo quan sát của tôi, khi nào nghệ sĩ càng đạt tới gần trạng thái quên mình hoàn toàn trong quá trình sáng tác, hay biểu diễn thì khi đó tác phẩm hay buổi trình tấu mới càng đạt tới gần đỉnh cao của sự truyền cảm. Nếu vẫn còn yêu mình, nghĩ đến mình nhiều trong khi vẽ hay chơi đàn thì đỉnh cao đó vẫn còn xa vời.

Là một tiến sĩ vật lý ông có cảm thấy các định luật khô cứng ảnh hưởng đường nét hay màu sắc trong tác phẩm của mình hay không?

Các định luật vật lý không hề khô cứng. Thành thực mà nói, hiếm khi tôi có một cảm giác thẩm mỹ về chúng. Tôi chỉ thấy sung sướng khi mình đang làm ra một điều gì đó hấp dẫn trong khi áp dụng các định luật đó. Khác với hội hoạ, kết quả của vật lý đẹp không đơn thuần chỉ vì nó đẹp mà vì nó phản ánh chân lý. Còn khi vẽ, tôi tập cho mình thói quen cắt mọi ý nghĩ tới vật lý. Chắc nó vẫn có ảnh hưởng ngầm trong tiềm thức, song đó là điều tôi không tự cảm nhận được.

Ông đang sáng tác theo trường phái nào? Siêu thực hay Huyền ảo? Và tại sao ông lại chọn khuynh hướng này?

Tôi không có chủ ý đi theo bất cứ khuynh hướng nào. Người này gọi tranh tôi là “siêu thực”, người kia bảo là “huyền ảo”. Năm ngoái tác giả Gerhard Habarta có xuất bản một “Cuốn từ điển các hoạ sĩ huyền ảo” tại Đức, dày gần 500 trang, trong đó có nói đến tôi tại trang 117. Có người không ưa tranh tôi thì bảo tranh tôi chẳng “siêu” mà cũng chẳng “thực”. Cách  đây vài hôm, một ông người Mỹ từ Hoa Kỳ đã gửi vài email cho tôi nói rằng ông ta vốn là đồ đệ của đại danh hoạ siêu thực Salvador Dalí vào những năm 1970. Ông ta đã xem tranh của tôi trên internet và rất kinh ngạc. Ông ấy muốn mua 1 – 2 bức tranh của tôi, muốn hiểu biết thêm về kỹ thuật vẽ của tôi, thậm chí còn muốn kết bạn lâu dài với tôi nữa. Theo ông ấy thì tôi không phải là hoạ sĩ siêu thực, rằng tranh của tôi, trừ một số chi tiết tương tự như trong tranh của Dalí, có một hướng đi độc đáo riêng, rằng đó là khuynh hướng “hiện thực của một cách nhìn kết hợp nghệ thuật và khoa học”. Không biết nhận xét cùa một người từng làm việc nhiều năm với Salvador Dalí và bản thân cũng là một hoạ sĩ siêu thực như ông ta có làm thất vọng những người từng “tặng” tôi “danh hiệu Salvador Dalí Việt Nam” hay không, song, nói chung, tôi không quan tâm tới việc người ta gọi tranh tôi là gì.

Có ý kiến cho rằng tranh của ông nhuốm màu lạnh nhiều hơn màu nóng, kể cả khi ông vẽ về sa mạc, ông có đồng ý với nhận xét này hay không?

Tôi không nghĩ rằng việc tôi trả lời “đồng ý” hay “không đồng ý” có một ý nghĩa gì ở đây. Nhưng nếu xem tất cả các tranh tôi đã vẽ từ 1986 tới giờ, hiện đăng trên trang web của tôi, thì có thể thấy sự thay đổi trong hội hoạ cuả tôi. Những tranh vẽ cách đây 15 – 20 năm có tông màu chung ấm hơn. Không rõ cuộc sống tự do, hoà bình, an toàn của tôi hiện nay tại đất nước mặt trời mọc, mà một người bạn của tôi gọi là “thiên đường tại hạ giới”, có ảnh hưởng thế nào tới sự thay đổi ấy. Khi vẽ, một trong những điều tôi đặc biệt quan tâm là việc chế ngự cảm xúc để đạt được điều mình muốn một cách tự nhiên nhất. Nghe tưởng như mâu thuẫn, song đó là một trong những điều khó nhất của nghệ thuật. Tôi nghĩ rằng, văn nghệ sĩ không được phép để cảm xúc của mình lấn át cái Chân, bởi nếu không có Chân thì sẽ chẳng có cả Thiện lẫn Mỹ.

Theo ông sự tự do tuyệt đối trong sáng tác có phải là tiêu chí đầu tiên của người cầm bút/cọ  hay không, và điều gì xảy ra nếu họ bị rào cản nhân danh đạo đức hay văn hóa chặn lại?

Tự Do tuyệt đối không phải là tiêu chuẩn của sáng tạo mà là điều kiện cần để có được những sáng tạo thực sự có giá trị. Albert Einstein từng nói: “Tất cả những gì thực sự vĩ đại và truyền cảm đều được sáng tạo ra bởi cá nhân lao động trong Tự Do.”

Tuy rằng nghệ thuật là do con người sáng tạo ra, song nghệ thuật là cái gì đ̣ó cao hơn cả chính người sáng tạo ra nó. Nó như cái linh của vũ trụ nhập vào một cá nhân, cái thần khí mà Tạo Hoá gửi gắm vào người nào đủ khả năng nhận được nó, để rồi sau khi tài năng này sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật, cái thần khí đó như thoát ra, tác động tới người thường ngoạn. Tiếc rằng trong lịch sử nhân loại, rất nhiều người đã không hiểu được cái linh đó của nghệ thuật. Họ dùng nghệ thuật như một thứ công cụ để phục vụ các mục đích hữu hạn ích kỷ và tầm thường của mình. Họ nhân danh nhiều thứ nhăng nhít, kể cả viện dẫn đạo đức và văn hoá mà đến bản thân họ cũng thiếu, để hù doạ hay đàn áp những người sáng tạo nên nghệ thuật. Khi điều đó xảy ra, đó là bi kịch cho các cá nhân nghệ sĩ nói riêng và thảm hoạ cho văn hoá nghệ thuật nói chung. Khi đó nghệ sĩ buộc phải lựa chọn. Một số người say sưa như lên đồng, đem tài năng và tâm huyết của mình ra tô vẽ cho bạo quyền, cho tiền bạc và danh vọng. Một số người khác vẫn đeo đuổi tiếng gọi của Nghệ Thuật tuyệt đối và hậu quả là đã phải hứng chịu bao tai họa giáng xuống họ, từ bị sỉ nhục, bị mất việc, đến bị cầm tù, bị ̣ hành hạ về thể xác. Nhiều người khác chịu cúi đầu thoả hiệp để yên phận, để tồn tại và nếu có thể thì sáng tác nên những tác phẩm gượng gạo, giả tạo. Nhiều người khác nữa rũ áo, bỏ quê hương ra đi, tới những xứ sở tôn trọng tự do biểu hiện với hy vọng sẽ đạt tới Chén Thánh. Tóm lại có nhiều cách lựa chọn: tự nguyện, hay bắt buộc, hay tự nguyện bắt buộc (volontariat forcé). Nhưng, nghệ thuật đứng trên tất cả những cái đó. Như văn hào Alexandr Soljenitsyn từng nói trong diễn từ nhận giải Nobel văn chương năm 1972 cuả mình: “Mặc cho mọi dày vò của chúng ta, Nghệ thuật vẫn không bị vấy bẩn, vẫn không vì thế mà đánh mất đi nguồn gốc của mình, vẫn luôn luôn, và trong mọi cách chúng ta dùng nó, rọi chiếu lên chúng ta một phần cái ánh sáng bí mật bên trong của nó. Nghệ thuật hé mở cho chúng ta, tuy lờ mờ, tuy ngắn ngủi, những điều không thể nào đạt được bằng lý trí. Như chiếc gương thần trong truyện cổ tích, nhìn vào nó ta không thấy chính mình mà chợt thấy một khoảnh khắc ta chẳng khi nào đạt tới, phóng tới, bay tới được. Và chỉ có tâm hồn đang thổn thức.

Chú thích:
Trên đây là nguyên văn phần tôi trả lời 5 câu hỏi RFA đã gửi cho tôi trước để chuẩn bị. Trong khi phỏng vấn, RFA có thêm một câu hỏi thứ 6 về các hoạ sĩ trẻ hiện nay ở Việt Nam. Độc giả nào quan tâm xin mời nghe tại đường link thượng dẫn.

Từ điển các hoạ sĩ huyền ảo (Lexikon der phantastischen Künstler)

Nguyễn Đình Đăng và bức tranh "Ma trân linh thiêng" (sơn dầu, 72.7 x 91 cm, 2002) được đưa vào "Từ điển các hoạ sĩ huyền ảo" (Lexikon der phantastischen Künstler), trang 117, do Gerhard Habarta biên soạn, NXB BoD - Books on Demand GmbH, Norderstedt, Germany, 2009, 464 trang.

Friday 15 October 2010

"Tôi đã chọn thồ cả vật lý lẫn hội hoạ"

Nguyễn Đình Đăng trả lời phỏng vấn của Sài Gòn Tiếp Thị

Bài này đã được đăng tại Sài Gòn Tiếp Thị, ngày 11/10/2010, mục "Giá trị sống", sau khi toà soạn đã cắt vài chỗ (phần in màu đỏ trong nguyên bản dưới đây).

Thành lập năm 1917, RIKEN ngày nay là một trong số 10 viện nghiên cứu khoa học cơ bản hàng đầu của Nhật Bản, có ngân sách khoảng 1 tỉ USD/năm, với 7 cơ sở trong nước và 6 cơ sở tại châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ. Trong số hơn 3000 nhà khoa học làm việc tại RIKEN có hơn 400 nhà khoa học nước ngoài, nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau như vật lý, hoá học, sinh vật, não, tin học v.v. Từ năm 1995 Nguyễn Đình Đăng được mời tới nghiên cứu lý thuyết cấu trúc hạt nhân nguyên tử tại cơ sở chính của RIKEN ở thành phố Wako, tỉnh Saitama. Thế nhưng trong câu chuyện với độc giả Sài Gòn Tiếp Thị, nhà vật lý hạt nhân này lại nói về một khía cạnh khác của bản thân: hội hoạ.

Chân dung tự họa
Mê vẽ và nghệ thuật từ nhỏ, song anh đã chọn học đại học về vật lý. Bây giờ nhìn lại, anh có luyến tiếc gì không? Ví dụ như nếu gia đình lúc đó khá giả, đất nước thì văn minh và nhiều giai tầng trung lưu, quý tộc hơn – anh đã toàn vẹn là một nghệ sĩ?

Tôi chọn học vật lý vì tôi cũng rất mê vật lý. Nhờ đạt điểm cao tại kỳ thi vào đại học năm 1975 tôi được sang học vật lý tại Đại học Quốc gia (ĐHQG) Moskva. Nước Nga đã mở cho tôi cánh cửa vào thế giới không chỉ của khoa học, mà còn của nghệ thuật và âm nhạc cổ điển thứ thiệt. Nếu lịch sử đã diễn ra theo một cách khác, hoặc nếu người ta có thể lựa chọn nơi mình sinh ra và lớn lên thì tôi đã không phải là tôi bây giờ nữa. Chưa chắc khi đó tôi đã vẽ được như bây giờ. Song nếu mất cơ hội để trở thành nhà vật lý, đối với tôi, sẽ thật sự là một điều đáng tiếc. Nếu bạn có tài, bạn có thể tự học để trở thành hoạ sĩ. Còn để trở thành nhà vật lý ngày nay hầu như chỉ có một con đường: tốt nghiệp đại học, bảo vệ luận án tiến sĩ, trải qua nghiên cứu tại các viện nghiên cứu hiện đại trên thế giới.

Nhưng cũng trong một bài trả lời phỏng vấn đài NHK (Nhật Bản) gần đây, anh đã tách bạch và dí dỏm về chuyện hai bán cầu não, về hai con người trong anh. Có thể cắt nghĩa hay minh chứng một chút về điều này cho độc giả quê nhà hiểu được?

Có lẽ tôi giống con lừa của Buridan ở chỗ tôi có hai đống thóc để chọn. Con lừa đã chết đói vì không biết chọn đống thóc nào để ăn. Tôi không chết đói mà cũng không bị bội thực, có lẽ vì, nhờ có cái dạ dày to và hai hàm răng khoẻ, tôi nhai ngấu nghiến một lúc cả hai đống thóc.

Nhiều người dành 4-5 năm vào đại học mỹ thuật để thành hoạ sĩ. Hẳn anh đã dành ra nhiều thời giờ hơn để tự học?

Tự học có cái hay của nó là mình học những gì thực sự thích và thấy cần thiết, không bị sức ép của thi cử, không phải học những môn vô bổ như lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô hay Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Nếu chẳng may gặp phải thầy dốt hay một chương trình đào tạo “dở hơi” thì cái sự học ở nhà trường sẽ chỉ làm phí thời gian và phí tiền, thậm chí còn có hại. Dĩ nhiên tốt nghiệp đại học mỹ thuật không có nghĩa là bạn nghiễm nhiên trở thành hoạ sĩ. Trường đại học chỉ cung cấp các kiến thức có hệ thống và một số kỹ năng cơ bản để bạn có thể bắt đầu sự nghiệp sáng tác hội hoạ của mình. Để trở thành hoạ sĩ thực thụ bạn vẫn phải tự học, tự rèn luyện, tiếp xúc, trao đổi rất nhiều.


Nếu bỏ từ “nhà vật lý”, anh hoàn toàn là một hoạ sĩ. Cuộc đấu tranh trong anh đã diễn ra như thế nào? Khi ở Liên Xô theo học vật lý, vốn bận rộn và khó khăn với một sinh viên Việt Nam, anh không dành thời giờ đi buôn để cải thiện như bao người, lại đến Bảo tàng Pushkin để tập chép tranh, phân tích và tập vẽ?

Thân lừa ưa nặng nên tôi đã chọn thồ cả vật lý lẫn hội hoạ. Những năm tôi là sinh viên, cuộc sống tại Moskva còn tương đối đầy đủ. Khi nền kinh tế của cái gọi là “chủ nghĩa xã hội phát triển” sa sút, tôi làm nghiên cứu sinh tại viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, có điều kiện nghiên cứu khoa học khá tốt, và thành phố còn có một cửa hàng nhỏ cung cấp thực phẩm cho các nhà khoa học nước ngoài, nên cũng sống ổn. Tôi chỉ tập trung vào vật lý và vẽ nên chẳng còn thì giờ cho những việc khác… như đi buôn. Nói vậy chứ đi buôn cũng phải say mê mới có hy vọng thành công. Sau nhiều cao trào, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa vật lý và hội hoạ trong tôi đã đến hồi “diễn biến hoà bình”.


Có lần anh nói mình thường mơ thấy căn phòng có nhiều đàn dương cầm. Anh có bao giờ mơ ước sẽ trở thành nghệ sĩ dương cầm? Tự nhìn nhận, anh nghĩ mức độ chơi đàn dương cầm của anh đến đâu?

Khi tôi còn bé, nhà tôi có một chiếc piano đứng, vỏ bị mọt, búa và phím lọc xọc, nhiều khi phím bị mắc cứng, dây đàn không bao giờ chuẩn. Thợ lên dây đàn không dám lên đúng cao độ tuyệt đối vì sợ nếu đứt dây sẽ khó tìm được dây thay thế. Khỏi phải nói tôi không thích tập trên chiếc đàn đó như thế nào. Tôi rất lười tập đàn, chỉ hôm trước ngày trả bài tôi mới tập. Cô giáo dạy đàn nói tôi không có tài chơi piano. Tôi cũng chưa bao giờ mơ ước mình sẽ thành pianist. Nhưng tôi rất thích nghe nhạc cổ điển. Có vẻ như tôi có đôi tai tốt, nên khi học nhạc tại trường Nghệ thuật Hà Nội tôi thường được điểm cao về ký xướng âm và ghi âm (nghe một đoạn nhạc rồi ghi lại nốt nhạc). Thời sinh viên tại Nga tôi từng là người đệm piano cho dàn đồng ca và đội múa của sinh viên - nghiên cứu sinh Việt Nam tại ĐHQG Moskva.

Tới Nhật vào năm 1994, tôi đã mua piano để dạy con trai tôi và tự tập hàng ngày. Tôi chơi piano trước công chúng mỗi năm khoảng 3 lần tại buổi trình diễn của trung tâm khí nhạc Yamaha nơi tôi học piano 5 năm nay, tại các buổi hoà nhạc tại viện Nghiên cứu Vật lý Hoá học (RIKEN), và tại khai mạc triển lãm thường niên của hội Mỹ thuật Chủ Thể. Năm nay tôi chơi Scherzo Op. 39 No. 3 của F. Chopin. Ngoài Chopin, tôi thích chơi tiểu phẩm của các nhà soạn nhạc trào lưu lãng mạn (R. Schumann, E. Grieg, S. Rachmaninov). Tôi cũng thích C. Debussy (trào lưu ấn tượng). Tuy nhiên, nếu về hội hoạ tôi đã hoàn toàn điều khiển được kỹ thuật, thì về piano tôi vẫn phải cố gắng tập luyện, mỗi ngày ít nhất khoảng 2 giờ. Có lẽ đó là lý do đôi khi tôi thấy piano hiện lên trong mơ.


Oscar Wilde (1854 – 1900) đã từng phát biểu: “Cái cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng”; anh cũng thích câu này. Tại sao anh chọn làm những việc vô dụng (như chơi đàn, vẽ tranh)?

Oscar Wilde đã giải thích câu này như sau: “Nghệ thuật là vô dụng bởi mục đích của nó đơn giản là chỉ nhằm tạo nên một tâm trạng. Nó không nhằm để chỉ dẫn hay tạo ảnh hưởng lên hành động theo bất cứ một kiểu gì (…). Nếu việc thưởng ngoạn một tác phẩm nghệ thuật lại được nối tiếp bởi một hành động dưới bất cứ hình thức nào, thì hoặc đó chỉ là một tác phẩm rất thứ cấp, hoặc người xem không cảm nhận được toàn bộ ấn tượng nghệ thuật của nó. Một tác phẩm nghệ thuật cũng vô dụng như một đoá hoa. Đoá hoa nở cho niềm sung sướng của chính nó. Chúng ta có được một khoảnh khắc sung sướng khi ngắm hoa nở. Đó là tất cả những gì có thể nói về quan hệ giữa chúng ta và hoa. Tất nhiên, người ta có thể đem hoa đi bán và thu lợi cho mình, nhưng việc đó chẳng dính dáng gì đến hoa cả. Đó không phải là một phần của bản chất của loài hoa. Đó là một sự tình cờ. Đó là một sự lạm dụng.

Tôi vẽ tranh hay chơi piano trước hết là do say mê. Vẽ một cái gì đó cho “giống” đối với tôi không phải là việc khó. Tôi muốn tự mình chơi được những bản nhạc hay bằng tiếng đàn và nhạc cảm của chính mình. Tôi nghiên cứu vật lý chủ yếu cũng do say mê và tò mò. Kết quả đối với tôi không hấp dẫn bằng quá trình đạt tới kết quả đó.


Có vài quan điểm cho rằng vật lý lượng tử và hạt nhân là gần với triết học, nghệ thuật nhất. Nếu gần như vậy, theo anh, vật lý có vô dụng không? Đã có ứng dụng gì của vật lý hạt nhân tại Việt Nam?

Vật lý vốn có tên là “triết học tự nhiên”, là khoa học nhằm tìm hiểu bí mật của vũ trụ. Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử đã đưa đến nhiều cách trình bày, suy diễn, tranh cãi về mối quan hệ giữa nhận thức và thực tế. Tuy nhiên, trong số những quan điểm đó cũng có nhiều khoa học giả hiệu (pseudoscience) kiểu “lượng tử hoá Phật giáo”. Salvador Dalí cũng đã từng định “lượng tử hoá hội hoạ”!

Bản thân tôi thấy vật lý và hội họa có một điểm chung: đều là những lĩnh vực của sự sáng tạo, trí tưởng tượng, và trực giác. Vật lý tìm hiểu quy luật của vũ trụ khách quan được tạo ra bởi Nghệ sĩ vĩ đại nhất: Tạo Hoá. Còn trong hội họa mỗi nghệ sĩ sáng tạo ra một vũ trụ của riêng mình. Theo quan điểm yếm thế thì cả vật lý lẫn nghệ thuật đương đại còn có một điểm chung nữa là đều không loại trừ xu hướng chạy theo thời thượng, mà hậu quả là sự phung phí tiền của người đóng thuế trong một số dự án nghiên cứu đầy tham vọng của vật lý và hàng loạt nghệ phẩm được “sản xuất” theo thị hiếu của thị trường.

Vật lý có rất nhiều ứng dụng trong công nghệ, đời sống. Từ bóng đèn điện, xe máy, xe hơi, tivi, internet, mobile phone, tới… đường sắt cao tốc, nhà máy điện nguyên tử - tất cả đều là ứng dụng của vật lý. Song đó không phải là mối quan tâm trực tiếp của các nhà khoa học cơ bản. Khi một thượng nghị sĩ hỏi liệu máy gia tốc nhiều triệu đô-la tại Fermilab (Hoa Kỳ) có đóng góp gì cho chương trình an ninh quốc gia, giám đốc Fermilab Robert Wilson đã trả lời: “Nó chẳng có đóng góp trực tiếp gì cho việc bảo vệ tổ quốc chúng ta, ngoài việc làm cho đất nước này xứng đáng được bảo vệ.”

Việt Nam mới nhập một máy gia tốc cyclotron 30 MeV để phục vụ y học với số vốn đầu tư hơn 500 tỉ đồng. Máy này cũng có một kênh dự định dành cho nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, tôi nghĩ cách tổ chức và tài trợ cũng như môi trường nghiên cứu khoa học tại Việt Nam hiện nay không khuyến khích, nếu không nói chỉ làm thui chột nhân tài. Một nghiên cứu sinh của tôi, sau khi tu nghiệp tiến sĩ tại RIKEN, được Quỹ tưởng niệm Nishina tài trợ làm nghiên cứu sau tiến sĩ cũng tại RIKEN, khi về nước, đã được nhận vào làm hợp đồng với lương tháng 2 triệu đồng. Lương như vậy thì hoạ may có thể sống thoi thóp, đừng nói tới nghiên cứu khoa học.


Làm một con người đa diện, có khoa học - nghệ thuật, sẽ vui hơn con người đơn điệu?

Leonardo da Vinci từng nói: “Niềm sung sướng cao quý nhất là niềm sung sướng của sự hiểu biết.” Vậy nên những người đa diện (am hiểu nhiều lĩnh vực) chắc chắn có đời sống tinh thần phong phú hơn những người… độc diện. Ông bạn tôi, Luciano Moretto, giáo sư vật lý tại Lawrence Berkeley Laboratory, là một bách khoa toàn thư sống về văn chương, lịch sử, mỹ thuật, âm nhạc. Nói chuyện với ông ta thực sự là cả một niềm sung sướng.


Nhìn lại hành trình của đời mình, trải qua những chọn lựa và đổi thay, anh có nghĩ đó là một may mắn?

Tôi cho rằng may mắn luôn có vai trò, đôi khi quyết định, trong tất cả những thành công lớn hay nhỏ mà người ta đạt được. Có lẽ tôi cũng là một người gặp may vì được cha mẹ sinh ra với một chút năng khiếu hội hoạ trời cho, rồi được cha mẹ truyền cho những cảm nhận cơ bản về văn minh, dân chủ, tự do ngay từ khi tôi còn rất bé, trong khi Việt Nam còn chìm trong khói lửa của chiến tranh, bị trói buộc bởi bao áp đặt về tư tưởng. Tôi đã gặp may vì đã thoát chết trong một trận bom Mỹ năm 1972, để sau đó ra nước ngoài du học. Đã 16 năm nay tôi được sống một cuộc đời bình thường cùng gia đình tại Nhật Bản, được tự do làm những gì mình thích, thậm chí được trả lương cho cái tự do đó, đủ để nuôi sống bản thân và vợ con. Đó chẳng phải là điều may mắn sao?

*

Nguyễn Đình Đăng sinh tại Hà Nội, tốt nghiệp vật lý đại học Quốc gia Moskva (1982), tiến sĩ (1985) và tiến sĩ khoa học (1990) về lý thuyết vật lý hạt nhân tại đại học này; từ năm 1982: nghiên cứu viên viện Khoa học kỹ thuật hạt nhân (viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam); từ năm 1995: nghiên cứu vật lý hạt nhân tại trung tâm Nishina của viện RIKEN; hội viên hội Mỹ thuật Việt Nam và hội viên hội Mỹ thuật chủ thể (Nhật Bản); tác giả và đồng tác giả của khoảng 100 công trình nghiên cứu đăng tại các tạp chí chuyên ngành (xem danh mục). Các kết quả này đã được thuyết trình ở hơn 70 hội thảo khoa học quốc tế, seminar, lớp học tại các trung tâm nghiên cứu của gần 20 nước.
Thực hiện: Hiền Hoà
9/9/2010

Friday 1 October 2010

Giá trị của nghệ thuật *)

Nguyễn Đình Đăng
Tại sao hoạ sĩ vẽ?

Vì sao có những người lao vào các hoạt động trừu tượng chẳng phải để kiếm tiền, cũng chẳng phải vì danh?

Cái gì khiến nghệ thuật cuốn hút chúng ta? Giá trị của nghệ thuật nằm ở đâu?

Hội hoạ ra đời trước khi loài người có chữ viết hàng chục ngàn năm. Người ta đã tìm thấy các bức hoạ được vẽ cách đây tới 35-40 ngàn năm trong các hang động tại châu Âu và Úc, trong khi chữ viết xuất hiện khoảng 3500 – 4000 năm về trước. Cho dù nghệ thuật đã trải qua bao cuộc bể dâu, luôn có một sợi dây vô hình nối liền các hoạ sĩ từ thời tiền sử, cổ đại, trung cố, Phục Hưng, tới hiện đại, và đương đại. Sợi dây đó là: Nghệ sĩ sáng tạo ra nghệ thuật để biểu hiện chính họ, biều hiện những gì họ cho là quan trọng, có ý nghĩa nhất, phản ánh các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của chính họ. Trong chúng ta, một số người có một sự bức thiết cần biểu hiện nội tâm qua việc tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Họ có phải là những người khác thường không? Đối với một số người trong số họ, câu trả lời là có. Bởi lẽ, để biều hiện được chính mình một cách thuyết phục, trước hết là đối với chính họ, họ cần được Trời phú cho một khả năng đặc biệt gọi là Tài năng.

Trong Lời tựa cho tiểu thuyết “Chân dung Dorian Gray” – cuốn tiểu thuyết duy nhất của mình, Oscar Wilde viết: “Cái cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng. 

Năm 1891 Bernulf Clegg, một sinh viên đại học Oxford, đã gửi thư đề nghị Oscar Widle giải thích. Trong thư trả lời, Wilde đã viết như sau (trích):

Nghệ thuật là vô dụng bởi mục đích của nó đơn giản là chỉ nhằm tạo nên một tâm trạng. Nó không nhằm để chỉ dẫn hay tạo ảnh hưởng lên hành động theo bất cứ một kiểu gì (…) Nếu việc thưởng ngoạn một tác phẩm nghệ thuật lại được nối tiếp bởi một hành động dưới bất cứ hình thức nào, thì hoặc đó chỉ là một tác phẩm rất thứ cấp, hoặc người xem không cảm nhận được toàn bộ ấn tượng nghệ thuật của nó. Một tác phẩm nghệ thuật cũng vô dụng như một đóa hoa. Đoá hoa nở cho niềm sung sướng của chính nó. Chúng ta có được một khoảnh khắc sung sướng khi ngắm hoa nở. Đó là tất cả những gì có thể nói về quan hệ giữa chúng ta và hoa. Tất nhiên, người ta có thể đem hoa đi bán và thu lợi cho mình, nhưng việc đó chẳng dính dáng gì đến hoa cả. Đó không phải là một phần của bản chất của loài hoa. Đó là một sự tình cờ. Đó là một sự lạm dụng.

Thực chất, Oscar Wilde đã diễn giải lại quan điểm về nghệ thuật tuyệt đối cuả Kant. Kant cho rằng cái Đẹp là cái gì đó không có bất kỳ một chức năng nào khác ngoài chức năng làm cái Đẹp. Khi đó một vật thể thể sẽ trở thành thuần túy là một vật thể, hiện ra hoàn toàn chỉ vì nó đẹp chứ không vì bất cứ công dụng nào khác. Như vậy nghệ thuật theo Kant là một cách biểu diễn đẹp của một hình thức, thông qua đó nghệ sĩ mặc sức tưởng tượng để liên tục mở rộng quan niệm về chính cái Đẹp. Điều đó có nghĩa là nghệ thuật đã đi ra ngoài thế giới của lý trí, và cái Đẹp là điều ta không thể cắt nghĩa được [1].
“Vô dụng” (useless) ở đây không đồng nghĩa với “Vô giá trị” (having no value). Từ “Nghệ thuật” (Art) trong nhận định “Nghệ thuật là vô dụng” (Art is useless) được dùng để chỉ “nghệ thuật sáng tạo” (creative art) hay “fine art” (mỹ thuật), tạm gọi là “nghệ thuật thuần túy” hay “nghệ thuật tuyệt đối”, ở đó nghệ sĩ dùng tài nghệ và kỹ năng để biểu hiện sáng tạo của mình. Khi xem tác phẩm do nghệ sĩ sáng tạo ra như vậy, công chúng có các rung động thẩm mỹ. Và đó là tất cả. Bởi nếu nghệ sỹ dùng tài năng của mình để làm nên một vật có chức năng nào khác ngoài sự rung động thẩm mỹ (ví dụ như một cái bình để cắm hoa, một cái ghế để ngồi, v.v., tức có một công dụng nào đó) thì ngay lập tức vật đó sẽ thuộc về đồ mỹ nghệ (craft) chứ không còn là mỹ thuật thuần túy nữa. Tương tự như vậy, nếu tài năng của nghệ sĩ được áp dụng vào quảng cáo thương mại hay kỹ nghệ thì nghệ thuật thuần túy trở thành “thiết kế” (design) hay được gọi chung là “nghệ thuật ứng dụng” (applied art). Nói tóm lại, nghệ thuật trong nhận định “Nghệ thuật là vô dụng” không có chức năng nào khác ngoài việc truyền đạt một ý tưởng.

Trong diễn từ nhận giải Nobel văn chương năm 1972, bình luận về lời tiên tri của Fyodor Dostoevsky “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”, Alexandr Solzhenitsyn đã phát biểu như sau:

Nắm giữ Nghệ thuật trong tay, chúng ta tự cho rằng mình là chủ nhân của nó, hùng hổ điều khiển nó, đổi mới nó, cải cách nó, tuyên ngôn nó, bán nó lấy tiền, dùng nó để bợ đỡ những kẻ mạnh, coi nó hoặc như trò tiêu khiển trong các ca khúc thị trường, nơi tửu quán, hoặc như hòn đá hay cái gậy, bất kể cái gì tóm được, để phục vụ các đòi hỏi chính trị thoảng qua, hay các nhu cầu xã hội hạn hẹp. Nhưng, mặc cho mọi dày vò của chúng ta, Nghệ thuật vẫn không bị vấy bẩn, vẫn không vì thế mà đánh mất đi nguồn gốc của mình, vẫn luôn luôn, và trong mọi cách chúng ta dùng nó, rọi chiếu lên chúng ta một phần cái ánh sáng bí mật bên trong của nó (…) ̣Nghệ thuật hé mở cho chúng ta, tuy lờ mờ, tuy ngắn ngủi, những điều không thể nào đạt được bằng lý trí. Như chiếc gương thần trong truyện cổ tích, nhìn vào nó ta không thấy chính mình mà chợt thấy một khoảnh khắc ta chẳng khi nào đạt tới, phóng tới, bay tới được. Và chỉ có tâm hồn đang thổn thức.

Giá trị của nghệ thuật là như vậy.

—————————–
[1] Nguyễn Đình Đăng, “Nghệ thuật là gì?”

Triển lãm Chủ Thể lần thứ 46

Triển lãm Chủ Thể lần thứ 46 đã khai mạc hôm Chủ Nhật 26/9/2010 vừa qua tại Bảo tàng Hoàng gia trong công viên Ueno (The Ueno Royal Museum) ở Tokyo. Đây là triển lãm hàng năm của hội mỹ thuật Chủ Thể (主体美術協会, thành lập năm 1964). Trong số hơn 300 tranh sơn dầu của khoảng 140 hội viên và 187 tác giả chưa phải hội viên có bức “Những con châu chấu voi bị lãng quên” của Nguyễn Đình Đăng (hội viên hội mỹ thuật Chủ Thể từ 2005).
Triển lãm mở cửa tới 1/10/2010, sau đó sẽ được gửi đi trưng bày lưu động tại bảo tàng BTMT Aichi ở Nagoya, và BTMT Kyoto.
Có thể xem một số hình ảnh của buổi khai mạc triển lãm tại đây.

Friday 24 September 2010

Đi tìm một phong cách Hà Nội trong hội hoạ

Nguyễn Đình Đăng [1]
Tôi ở đâu thì ở đó là nước Đức.
Phát biểu năm 1938 của Thomas Mann sau khi di tản tới Hoa Kỳ.




Trường Mỹ thuật Đông Dương – cái nôi của hội hoạ Việt Nam

Thời Trung Cổ tại phương Tây nghệ thuật tự do bao gồm 7 môn: Tam khoa (Trivium): văn phạm, tu từ học, logic; Tứ khoa (Quadrivium): số học, hình học, âm nhạc, thiên văn. Hoàn toàn không có hội hoạ và điêu khắc. Người thời xưa coi hai môn này là nghề thủ công. Thời cổ Hy Lạp các hoạ sĩ và nhà điêu khắc bị xếp vào hạng dưới của xã hội, dưới những người tự do và chỉ hơn nô lệ mà thôi. Họ học việc trong xưởng theo cách truyền nghề, đâu có được học đại học mỹ thuật như bây giờ. Từ “nghệ thuật” ("ars" trong tiếng Latin và "τεχνη[tekhne] trong tiếng Hy Lạp) có nghĩa đơn thuần là "sự khéo léo, kỹ năng". Thần bảo trợ cho các hoạ sĩ đồng thời cũng bảo trợ cho nghề rèn, đồ gốm, đan lát, kim hoàn, là thần thợ rèn Héphaïstos[2]. Trong Iliade của Homère có đoạn tả Héphaïstos chạm khắc chiếc khiên của Achille tinh xảo như thế nào.

Tượng Leon Battista Alberti
tại sân bảo tàng Uffizi, Florence
Quan niệm về nghệ sĩ như một cá nhân sáng tạo mà ta có bây giờ là quan niệm tương đối mới, chỉ xuất hiện từ thời Phục Hưng (t.k. 15). Leon Battista Alberti (1404-1472) là người đầu tiên phân loại nghệ thuật thượng cấp và nghệ thuật thứ cấp. Lần đầu tiên trong lịch sử mỹ thuật châu Âu, nghệ sĩ được xếp hạng dựa trên trí tuệ hơn là sự khéo tay. Nghệ sĩ bước ra khỏi bóng tối của vô danh và trở nên một cá nhân sáng tạo được xã hội trọng vọng.

Tại Trung Quốc hội hoạ đã xuất hiện cách đây khoảng 3 ngàn năm[3]. Từ thời nhà Đông Tấn (T.k. 3) đã xuất hiện các danh hoạ ký tên trên các tác phẩm của mình. Có điều là tại đây, hội hoạ và thư pháp là nghệ thuật thượng cấp chủ yếu do giới quý tộc và quan lại trong triều đình, có học, sáng tạo ra. Họ không phải là các nghệ sĩ chuyên nghiệp như cách hiểu ở phương Tây, mà vẽ với tư cách như các hoạ sĩ nghiệp dư (amateurs). Hội hoạ của họ thường đi kèm với thư pháp, thơ phú. Thư pháp được coi là hình thức hội họa cao nhất và thuần khiết nhất, tức là trước sự ra đời của hội hoạ trừu tượng châu Âu không dưới 17 thế kỷ. Tạ Hách [謝赫] (T.k. 5) là người đề ra 6 nguyên tắc đánh giá hội hoạ (hội hoạ lục pháp [繪画六法]):

1 - Khí vận sinh động[気韻生動]: nôm na là có sức sống

2 - Cốt pháp dụng bút [骨法用筆]: nôm na là cách dùng nét bút

3 - Ứng vật tượng hình [応物象形]: tả sự vật cho đúng là chúng

4 - Tùy loại phú thái [随類賦彩]: dùng màu sắc cho thích hợp

5 - Kinh doanh vị trí [経営位置]: bố cục

6 - Truyền mô di tả [伝模移写]: sao chép các bức hoạ của tiền nhân

Cố Khải Chi [顧愷之] (~ 344 – 406, đời Đông Tấn), 
Lời khuyên răn của quan nữ sử (Nữ sử châm đồ [女史箴圖]), 
trích đoạn bản sao đời Đường (t.k. 7 – 10), mực nho, màu trên lụa, British Museum

Vì sao tuy giáp Trung Quốc, lại trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mà nước ta không lưu giữ được bằng chứng cụ thể gì về một nền hội họa, cho dù đó có thể là nền hội họa nhập khẩu từ nước láng giềng phương Bắc? Chẳng lẽ, trong thời Bắc thuộc, các kẻ sĩ xứ ta chỉ chuyên tâm học văn chương thơ phú (cốt để ra làm quan), mà coi nhẹ triết lý của hội hoạ Trung Hoa cổ, vì nó mơ hồ khó hiểu đến nỗi người Việt Nam, không rõ vì óc thực dụng hay tinh thần dân tộc, đã bỏ qua? Kết quả là có vẻ như không có một tác phẩm hội họa nào ra đời chưa nói sống sót trong thời gian dài dặc đó. Nếu có chắc cũng rất ít, bị phá hủy trong chiến tranh liên miên, bởi khí hậu khắc nghiệt, hoặc bị chính người xứ ta tàn phá, cướp bóc, đem triều cống ngoại bang. Hay là người Trung Quốc không muốn truyền bá hội hoạ của họ cho ta? Thực vậy, ta hãy xem Trương Ngạn Viễn [張彦遠] - nhà phê bình mỹ thuật đời Đường - viết gì về hội họa vào khoảng năm 847: “Những danh hoạ đời xưa đều là dòng dõi kẻ sĩ có tinh thần khinh ghét thói thường và cốt khí cao quý, xuất chúng hơn người, nên mới có thể lưu danh mai hậu. Hội hoạ không phải là điều mà kẻ tiện nhân ngoài đường có thể mưu cầu mà được.”[4] Như vậy, trong mắt người Trung Quốc, vốn tự coi mình là trung tâm của văn minh, còn các dân tộc bốn phía xung quanh đều là man di mọi rợ[5], thì dân ta chỉ là một lũ dã man, gian trá, “sáng đầu tối đánh”, lấy đâu ra “cốt khí cao quý” để học hội hoạ?

 
Chu Phưởng [周昉] (~730 – 800, đời Đường), 
Cung nữ chơi cờ (Nội nhân song lục đồ [内人雙陸圖]) 
mực nho, màu trên lụa, 30.5 x 61.9 cm, Freer Gallery of Art, Washington

Giả thuyết này xem ra không vững[6], bởi khi nhìn sang Nhật Bản - nước láng giềng phía Đông mà dân Trung Nguyên cổ gọi là Đông Di hay Oa Di (Di lùn), ta thấy hội hoạ đã xuất hiện từ khi Đạo Phật xâm nhập từ Trung Quốc (T.k. 6 – 7). Tuy người Nhật cũng đánh nhau liên miên, song đến nay họ vẫn giữ được một số lượng đáng kể các bức tranh tường, bình phong, tranh cuộn vẽ trên luạ và trên giấy từ thời Nara (T.k. 8, các tranh kara-e, chủ yếu là khuyết danh), Heian (T.k. 8 – 12, yamato-e). Tới thời Muromachi (thế kỷ 14 – 15) ở Nhật đã xuất hiện nền hội hoạ hữu danh với các bậc thầy đầu tiên như Josetsu (如拙 = Như Chuyết) (1405 – 1423), vốn là một người Trung Quốc nhập tịch Nhật Bản, được coi là cụ tổ của hội hoạ mực nho Nhật Bản, Sesshu Toyo (雪舟等楊 = Tuyết Chu Đẳng Dương) (1420 - 1506) – một trong các đại danh hoạ tranh thủy mặc (sumie) thời Muromachi v.v. Các hoạ sĩ này đa số là các thiền sư, sáng tác và giảng dạy tại các đền chùa, và có vị trí cao trong xã hội. Vẽ đối với họ không phải là một nghề.

Josetsu [如拙] (1405-1423), 
Dùng quả bầu bắt cá trê, ~1413, 
mực nho trên giấy, Chùa Taizoin (Kyoto)

Tại Việt Nam thì ngay cả trong thời kỳ văn hoá phát triển rực rỡ như thời Lý – Trần (T.k. 11 - 14), hòn đá tảng của văn hóa Thăng Long – Đông Đô - Hà Nội, sử sách cũng như các hiện vật khảo cổ, di tích văn hoá không cho thấy bất cứ một bằng chứng cụ thể nào (ngoại trừ sự suy diễn) về một nền hội họa hay danh xưng của một hoạ sĩ[7]. Bức họa cổ nhất còn giữ được tới giờ tại Việt Nam là chân dung Nguyễn Trãi, được cho là vẽ vào thế kỷ 15 (thời Hậu Lê). Trong lúc đó, các di tích văn hoá đã cung cấp những bằng chứng hiển nhiên cho thấy sự tồn tại của một tầng lớp thợ vẽ, nghệ nhân phía dưới, mà truyền thống của họ còn được phát triển đến ngày nay[8]. Song có lẽ họ không thuộc tầng lớp quý tộc, được học hành văn chương chữ nghĩa. Họ chỉ làm công việc của người thợ, của kẻ làm thuê vô danh mà giá trị sản phẩm của họ được xác nhận bởi người chủ, chứ không phải bản thân họ. Việc hội hoạ hầu như vắng bóng trong lịch sử Việt Nam cho tới tận thế kỷ 20 hiện vẫn là một câu hỏi lớn chưa có câu trả lời thoả đáng.
Chân dung Nguyễn Trãi (~ t.k. 15?), lụa, 
không rõ tác giả và độ xác thực của bản gốc,
Bảo tàng lịch sử Việt Nam

Phải đợi 5 thế kỷ sau thời Phục Hưng quan niệm về vai trò cá nhân của nghệ sĩ mới được người Pháp gieo mầm tại Việt Nam. Trước khi trường Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD) được thành lập (27 tháng 10 năm 1924) tại Hà Nội, xứ ta cũng đã có một số hoạ sĩ hữu danh. Tuy nhiên ảnh hưởng của họ như những hoạ sĩ chuyên nghiệp hầu như không có gì[9]. Hoạ sĩ Lê Văn Miến (Lê Huy Miến) (1873 – 1943), được coi là người Việt Nam đầu tiên học được kỹ thuật hội họa sơn dầu châu Âu tại Paris, sau khi ở Pháp về cũng chỉ dạy học là chủ yếu. Thực ra trước trường MTĐD người Pháp cũng đã mở l’École professionelle tức trường dạy nghề tại Hà Nội vào năm 1902, trong đó có một khoa (hay bộ môn) dạy nghệ thuật. Trong khoảng từ 1901 đến 1913 tại Nam Kỳ người Pháp cũng đã mở các trường dạy mỹ thuật tại Thủ Dầu Một, Biên Hoà và Gia Định. Song các trường này chủ yếu dạy ứng dụng và phát triển các kỹ thuật trong nghệ thuật Á Đông dựa trên các đề tài và truyền thống bản xứ. Trong khi đó chương trình đào tạo của trường MTĐD được xây dựng hoàn toàn theo mô hình phương Tây, dạy kỹ thuật vẽ phương Tây, trong đó có vẽ tượng thạch cao, vẽ mẫu người khỏa thân. Chương trình còn dạy cả truyền thống và lịch sử hội hoạ phương Đông đặc biệt là Việt Nam. Vì vậy, có thể nói, trước khi trường MTĐD ra đời Việt Nam chưa hề có một nền Hội họa mà chỉ có "thủ công mỹ nghệ" hay "mỹ thuật ứng dụng". Cái ưu việt nhất của trường MTĐD là nó đã dạy cho người Việt Nam một quan niệm mới hoàn toàn về mỹ thuật, quan niệm của mỹ thuật châu Âu. Từ nay vai trò cá nhân của nghệ sĩ được đề cao. Hoạ sĩ không chỉ vẽ để tô điểm cho cung điện, chùa chiền nữa mà vẽ để thể hiện cái tôi của mình trong thế giới. Ký tên là một điều dĩ nhiên như một phần không thể thiếu được của sáng tạo. Chữ ký trở thành sự xác nhận của hoạ sĩ rằng đây chính là tác phẩm của anh ta, được sáng tạo, hoàn thành, và chấp thuận bởi chính anh ta và chỉ một mình anh ta mà thôi chứ không phải ai khác, kể cả vua chúa hay Đức Giáo hoàng. Việt Nam bắt đầu có một nền hội hoạ, một giới hoạ sĩ hữu danh (tức ký tên lên tranh của mình) sáng tác, triển lãm theo tinh thần hội họa phương Tây. Nền hội hoạ đó đã ra đời tại Hà Nội.

Trường MTĐD đã trở thành nơi khai sinh cho hai thể loại hội họa đặc biệt của Việt Nam: tranh lụa và tranh sơn mài. Tranh lụa ra đời gắn với tên tuổi của Nguyễn Phan Chánh (1892 – 1984) – sinh viên khóa đầu (1925 – 1930) của trường MTĐD. Song chúng ta cũng không quên rằng Nguyễn Phan Chánh làm nên tranh lụa nhờ sự gợi ý và ủng hộ của Victor Tardieu (1870 – 1937) – người sáng lập và hiệu trưởng đầu tiên của trường, người đã coi các học trò Việt Nam của mình “hay hơn người Pháp” (plus intéressant que les Français)[10]. Joseph Inguimberty (1896 – 1971), trưởng khoa hội họa của trường MTĐD từ 1925 tới 1946, cũng chính là người đã thành lập bộ môn nghiên cứu kỹ thuật sơn mài áp dụng trong hội họa, làm nên tên tuổi của “vua sơn mài” Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993), tốt nghiệp trường MTĐD năm 1936. Vì thế nếu coi Victor Tardieu là người cha đỡ đầu của hội hoạ Việt Nam thì cũng không phải là quá.

Nguyễn Phan Chánh (1892-1984),
Chơi ô ăn quan (1931), lụa [11]
Để cho khách quan, cũng cần nói về mặt trái của tấm huy chương. Lối vẽ được những người thầy phương Tây đầu tiên du nhập vào Việt Nam là lối vẽ trực tiếp (direct painting)[12], chịu ảnh hưởng của hội họa tiền ấn tượng và ấn tượng. Lối vẽ này đã tạo nên nhiều tác phẩm rất đẹp về hoà sắc và hiệu quả tức thời về ánh sáng, song cái giá phải trả là sự hy sinh hình hoạ và kỹ thuật vẽ sơn dầu nhiều lớp – những yếu tố cực kỳ quan trọng đã giúp tạo nên các kiệt tác của hội hoạ Flemish, Phục Hưng, và Baroque. Có lẽ sự coi nhẹ việc dạy kỹ thuật sơn dầu cổ điển trong chương trình học của trường MTĐD trước đây và ĐHMT Hà Nội sau này là một trong những nguyên nhân khiến, sau ròng rã gần một thế kỷ, nhiều hoạ sĩ Việt Nam còn “chưa làm chủ kỹ thuật”, theo nhận xét của ông chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam. Còn ông chủ tịch hội Mỹ thuật Hà Nội thì kể: “Tôi từng hỏi đại diện một trường mỹ thuật là có ai đủ trình độ vẽ một cái tay, cái chân cho chuẩn, các anh ấy bảo khó đấy!”[13]

Phong cách Hà Nội?

Có một “phong cách Hà Nội” hay “trường phái Hà Nội” trong hội hoạ Việt Nam hay không? Khi nói về đề tài này, một số người thường liên tưởng đến l´École de Paris (Trường phái Paris) với hàm ý hội hoạ Hà Nội được thừa hưởng ít nhiều lối vẽ của các trường mỹ thuật Paris thông qua những người thầy đầu tiên như Victor Tardieu, Evariste Jonchère (1892 - 1956), André Maire (1898 – 1984) [tốt nghệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia Paris (l´École Nationale Supérieure des Beaux-Arts de Paris)] và Joseph Inguimberty [tốt nghiệp trường Cao đẳng Quốc gia về Mỹ thuật Trang trí Paris (l'École Nationale Supérieure des Arts Décoratifs de Paris)]. Victor Tardieu từng là bạn cùng lớp với Henri Matisse và George Rouault do danh họa Gustave Moreau dạy, còn André Maire nguyên là học trò và con rể của danh hoạ Émile Bernard. Cách liên tưởng này thoạt nghe có vẻ cũng hấp dẫn. Song, nếu coi “trường phái Paris” (đầu thế kỷ 20) như một cái tên nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh đô Ánh sáng - trung tâm của nghệ thuật phương Tây, chứ không phải là một trào lưu nghệ thuật, thì cách liên tưởng với cái gọi là một “trường phái Hà Nội” nói trên quả là rất khập khiễng, thậm chí triệt tiêu luôn khái niệm về trường phái Hà Nội này, bởi cho dù có trường MTĐD, Hà Nội không phải và chưa từng là trung tâm nghệ thuật của Đông Dương. Đó là chưa nói đến những vấn đề như tự do biểu hiện, tự do hội họp trong sinh hoạt nghệ thuật nói chung và hội họa nói riêng tại các thành phố toàn cầu (cosmopolitan) như Paris, New York, Tokyo, nơi các hoạ sĩ và hoạt động mỹ thuật của họ không bị đặt dưới sự quản lý của bất cứ tổ chức nhà nước hay chính trị nào.

Tuy vậy, sinh hoạt mỹ thuật tại Hà Nội vẫn có vẻ nhang nhác trường phái Paris: Ngay từ những ngày đầu của trường MTĐD, Hà Nội đã trở thành nơi định cư của nhiều hoạ sĩ tương lai vốn không xuất thân từ Hà Nội. Ngày nay lại có thêm một số hoạ sĩ ngoại quốc tới sinh sống và sáng tác. Đời sống hội hoạ cuối thế kỷ 20 tại Hà Nội ít nhất cũng có đôi nét hao hao Paris, mà tôi không thấy ở nơi khác, ví dụ như Tokyo. Tôi muốn nói tới những cuộc gặp gỡ từng diễn ra hầu như hàng ngày giữa các hoạ sĩ và những người yêu văn chương nghệ thuật tại các quán cà phê trên vỉa hè Hà Nội những năm 80 – 90 của thế kỷ trước, tương tự như café “Les Deux Magots” và “Café de Flore” tại Paris từng là nơi hội ngộ của các thi sĩ tượng trưng như Arthur Rimbaud, Paul Verlaine, Stéphane Mallarmé, các hoạ sĩ từ siêu thực, dada, tới Pablo Picasso, Fernand Léger, các triết gia hiện sinh như Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir. Khi mới tới Tokyo, tôi hơi thất vọng vì không có những cuộc gặp gỡ thường xuyên tại các quán café như vậy, bởi Tokyo quá rộng lớn và ai nấy đều làm việc túi bụi. Cho dù Tokyo cũng có cả Café “Les Deux Magots” lẫn Café de Flore, chúng chỉ giống các ông tổ Paris của chúng ở cái tên. Tại Tokyo chúng tôi thường chỉ gặp nhau một năm một hai lần, chủ yếu là ngay tại các buổi khai mạc triển lãm hoặc tại quán ăn sau buổi khai mạc. Những cuộc hàn huyên tại tư gia của các đồng nghiệp hoạ sĩ tại Tokyo lại càng hiếm hoi hơn. Nếu có thì cũng phải hẹn trước hàng tháng có khi cả năm, và cũng không thể hàn huyên tới canh ba canh tư như ở Hà Nội thuở nào, bởi khi tỉnh rượu, lúc chưa tàn canh hai đã phải mau mau cáo từ ra về kẻo lỡ chuyến tàu vét.

Vì thế, nếu ta vẫn muốn nói tới một phong cách Hà Nội trong hội họa, tôi nghĩ tới phong cách trong sinh hoạt mỹ thuật của các hoạ sĩ sống tại Hà Nội nhiều hơn là một phong cách nghệ thuật trong các sáng tác của họ. Mà đã đụng đến phong cách này tức là động đến nhân cách, đến con người. Con người thì chẳng ai giống ai, nhân cách thì đa dạng. Có gì chung trong nhân cách các hoạ sĩ Hà Nội thứ thiệt? Để tránh sai lầm trong tổng quát hoá hoặc suy diễn dựa trên những trải nghiệm hạn hẹp, tôi chỉ xin kể sơ qua dưới đây về những người thầy và những người bạn hội hoạ đặc biệt gần gũi của mình.

Những người thầy và những người bạn hội hoạ

Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Người thầy dạy vẽ đầu tiên của tôi là cha tôi. Ông chưa bao giờ là hoạ sĩ, song ông vẽ rất giỏi. Từng tu nghiệp tại Paris và là một nhà giáo, ông thường dùng phấn trắng vẽ lên mặt chiếc bảng đen to tướng treo tại hành lang tầng 2 trong ngôi nhà chúng tôi. Ông vẽ Hercule đánh nhau với sư tử Némée, các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Ông giảng nghĩa cho tôi cái đẹp của hình hoạ thông qua dessins của Leonardo da Vinci. Ông truyền cho tôi niềm say mê văn chương, hội hoạ, và âm nhạc phương Tây. Ông dạy tôi tiếng Pháp, tiếng Anh, và toán sơ cấp.

Khi tôi khoảng 5 – 6 tuổi, bố mẹ tôi gửi tôi tới học vẽ nữ hoạ sĩ Nguyễn Thị Khang, vợ họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc, tại phố Quan Thánh, Hà Nội. Bà Khang vẽ phấn rất đẹp. Bà có một bức tranh vẽ giọt nước đọng trên chiếc lá sen bằng phấn mà giọt nước trông long lanh hắt ánh bạc từ chiếc lá sen. Song một trong các bài vỡ lòng về nghề vẽ tôi được học từ bà mà tôi nhớ nhất lại là cách gọt bút chì bằng dao bài sao cho vừa nhọn vừa dài lại vừa đẹp.

Có một dạo tôi từng được học một ông thày dạy vẽ không phải là hoạ sĩ, nhà ở gần Nhà Thờ Hà Nội. Vì “phát biểu sai lập trường”, ông đã bị đưa ra đấu tố ở khu phố, bị buộc phải “cúi đầu nhận tội phản động”, rồi bị “treo giò”, chỉ còn thiếu tí nữa thì bị lôi đi “cải tạo”. Ở nhà không được đi làm, ông tự học chữ Hán, tiếng Anh, tiếng Nga, đọc sách về văn chương, lịch sử, hội hoạ. Ông là bạn thân của bố tôi nên bố tôi gửi tôi đến nhà ông để ông dạy tôi vẽ. Ông mở sách dạy vẽ bằng tiếng Pháp ra đọc và bảo tôi làm theo. Có những lúc cả buổi sáng ông bảo tôi ngồi tập dùng bút lông nhúng mực Tàu và trong 1 – 2 giờ đồng hồ chỉ vạch những đường thẳng song song sát nhau trên giấy. Sau khi tôi đã tỏ ra thành thạo trong việc vẽ các đường song song, sóng lượn, các đường tròn, ông cho tôi vẽ “tự do”. Bị ám ảnh bởi các đề tài “vẽ tự do” các thày cô dạy vẽ thường đặt ra tại câu lạc bộ mà tôi từng học vẽ như “Bác Hồ với thiếu nhi”, “Gương người tốt việc tốt”, “Em đi cắm trại”, “Rằm Trung Thu”, “Em cho gà ăn” v.v., tôi rụt rè hỏi ông: “Vẽ cái gì ạ?” Ông trả lời: “Muốn vẽ cái gì cũng được!” Tôi không tin vào tai mình: “Cháu vẽ Ai-van-hô có được không ạ?” tôi hỏi. Khi đó tôi vừa đọc xong tiểu thuyết Ivanhoe của Walter Scott. “Tất nhiên là được. Vẽ tự do tức là cháu thích gì thì vẽ nấy”, ông nói. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được nghe một định nghĩa về tự do trong hội hoạ.

Ở lớp vẽ tôi hay bị các thày cô dạy vẽ “chê” là vẽ “bị Tây”. Dường như họ đã quên mất rằng cả cái nền hội hoạ của chúng ta vốn do người Tây da trắng mắt xanh mũi lõ khai sinh ra. Có lần tôi bị một cô giáo dạy vẽ bắt xóa đi các mảng ánh sáng và bóng đổ tôi dùng để thể hiện khối, vì trông… Tây. Tôi không hiểu tại sao “bị Tây” lại là dở và tại sao phải vẽ bẹt, phải “dân tộc”, phải “Việt Nam” mới là “hay”. Cách lý giải mà “nhà văn hoá” H. - một ông bạn khác của cha tôi - đưa ra không có sức thuyết phục đối với tôi. Ông này nói: “Châu Âu nó có truyền thống hội họa hàng thế kỷ. Mình vẽ kiểu Tây thì khi nào bằng nó được. Cho nên mình phải vẽ theo kiểu của dân tộc mình.” Cho đến bây giờ tôi vẫn không rõ “kiểu vẽ của dân tộc mình” là kiểu gì và liệu có một kiểu vẽ như vậy hay không. Đến khi được biết tới những khẩu hiệu như “một nền nghệ thuật vừa dân tộc vừa hiện đại” hay “một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” thì tôi thấy sởn da gà. Ngay cả hôm nay, khi thấy cái tên “Bản sắc văn hóa Hà Nội” trong chủ đề của hội thảo này, cảm giác rùng mình sởn gai ấy vẫn còn, tuy rằng tôi cũng đã có phần yên tâm hơn, vì tôi e rằng khó ai có thể định nghĩa cho ra ngô ra khoai “bản sắc Hà Nội” là cái gì, nhất là khi Hà Nội nay lại bao gồm cả Hà Đông và nghe đâu sẽ còn được mở rộng tới tận chân núi nơi xưa kia Sơn Tinh và Thủy Tinh từng tỉ thí! Tôi cũng đã hiểu rằng ở Việt Nam ta có quá nhiều khái niệm, ý tuởng, đề tài, dự án rất “hoành tráng” được đưa ra làm tấm bình phong che chắn hay bàn đạp thúc đẩy tư lợi cá nhân. Dù sao, tôi đã lại gặp may. Năm tôi 11 – 12 tuổi gì đó, tôi được “nhà văn hóa” H. dẫn đến gặp một hoạ sĩ vẽ sơn mài có tiếng ở Hà Nội để ông này “bảo ban” cho tôi vẽ khỏi Tây. Nào ngờ, hoạ gia này trả lời: “Nó Tây thì cứ để cho nó Tây. Nó thích gì cứ để nó làm thế. Nếu lúc nào nó thích vẽ kiểu ‘dân tộc’ thì tự nó sẽ ngộ ra.” Thế là đã 40 năm nay tôi cứ vẽ theo kiểu Tây, càng vẽ càng mê, mãi vẫn chưa ngộ. Trong thâm tâm tôi thầm cảm ơn hoạ gia này, mặc dù tôi chưa từng được học ông buổi nào.
Từ trái: Chân dung các hoạ sĩ Bùi Xuân Phái (1986), Mai Văn Hiến (1986), và Lê Huy Tiếp (1987),
Ký hoạ bút chì của Nguyễn Đình Đăng
Những hoạ sĩ sau này tôi được hân hạnh quen biết đều là những người tăm tiếng lừng lẫy trong làng mỹ thuật Việt Nam, nên tôi xin miễn kể chi tiết, mà chỉ nêu danh một số vị đặc biệt thân thiết. Đó là các ông Bùi Xuân Phái (1921 - 1988), Mai Văn Hiến (1923 - 2006) - hai vị sau này đã đứng ra giới thiệu tôi vào Hội Mỹ thuật Việt Nam, và Lê Huy Tiếp – đã lặn lội từ Hà Nội sang tận Tokyo dự khai mạc triển lãm cá nhân gần đây nhất của tôi hồi đầu tháng 4 năm 2010. Ba ông sinh ra từ 3 miền khác nhau của đất nước: ông Phái - tại Hà Đông, ông Hiến – tại Mỹ Tho, còn ông Tiếp – tại Nghệ An, kém hai cụ kia hàng chục tuổi, nhưng đều hội ngộ tại Hà Nội. Dường như tại Việt Nam mọi con đường nghệ thuật đều dẫn tới Thăng Long. Tôi đã học được nhiều điều qua các cuộc trao đổi với họ, từ hội hoạ đến đời và từ đời đến hội hoạ. Ông Tiếp là một trong số rất ít các hoạ sĩ Việt Nam, mà tôi được biết, nắm vững và thực hành thành thạo kỹ thuật hội hoạ sơn dầu. Đối với tôi đó là ba nhân cách rất đáng nể: ngay thẳng, chân thành, thanh bạch, hào hoa, sâu sắc, hóm hỉnh, khiêm nhường, quý trọng người tài, khinh ghét kẻ xu nịnh. Tóm lại, theo ngu ý, đó là những nhân cách rất Hà Nội [14].

Tôi là ai?

Nghề vật lý khiến tôi có dịp sống và làm việc tại ngoại quốc nhiều hơn ở trong nước. Tokyo, hay Paris, hay New York, v.v. là những thành phố toàn cầu (cosmopolitan). Những người sống tại đó bỗng dưng cũng cảm thấy thường trực cái nhịp đập của thế giới, trong đó có cả nghệ thuật. Ở Tokyo bạn không phải mất thì giờ, không bị hao tổn thần kinh hay bị “xì-trét” vì những cấm đoán ngớ ngẩn như phải xin phép cơ quan chức năng nào đó thì mới được mở triển lãm, hay phải tự khẳng định mình qua việc tuân theo (hoặc từ chối) kiểm duyệt để tránh (hoặc chuốc) vạ vào thân. Ở Tokyo bạn được hưởng một quyền tự do biểu hiện gần như tuyệt đối mà nền dân chủ bậc nhất châu Á bảo đảm cho bạn. Song ở đây, hơn bao giờ hết bạn phải chứng tỏ dấu ấn cá nhân trong hội hoạ của bạn. Bởi lẽ khi bạn đã tham gia vào cuộc chơi toàn cầu thì không một bản sắc Hà Nội hay Việt Nam nào có thể che chắn hay nâng tầm nghệ thuật của bạn lên. Ở đây chỉ có cá nhân, nhân cách của chính bạn mới có thể khiến tác phẩm của bạn được người ta để mắt tới.

Tôi không nghĩ rằng cứ phải lồng các motive Hà Nội vào tranh hay các làn điệu dân ca Việt Nam vào âm nhạc thì mình mới là mình, là mới “đậm đà bản sắc dân tộc”. Bởi nếu chưa thấm thì ta có thể vẫn lai căng ngay trong chính nền văn hoá của ta tựa như một người bơ vơ trong chính ngôi nhà của mình. Tôi cũng chưa bao giờ tin vào một thứ “nghệ thuật được định hướng” kiểu như “một nền nghệ thuật vừa dân tộc vừa hiện đại” hay “một nền nghệ thuật tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Song tôi tin vào một nền nghệ thuật lớn chứa đựng những giá trị chung của toàn nhân loại, mà tôi nghĩ đó là nghệ thuật bậc nhất, nếu ta vẫn thích phân loại à la Leon Battista Alberti như cách đây 6 thế kỷ.

Có một điều tôi biết chắc rằng dù có vẽ ở đâu đi chăng nữa tôi vẫn thấy Hà Nội hiện về trong những giấc mơ, hay bất chợt như đang soi bóng lấp loáng dưới những làn nước xanh lam của Địa Trung Hải. Hà Nội hiện hình ngay cả khi tôi vẽ một thiếu nữ Nhật Bản vận kimono. Đôi khi, trong lúc dùng bút lông chồn kolinsky và sơn dầu Lefranc & Bourgeois vẽ trên toile Holbein đã được phủ gesso Talens và đánh nhẵn như đá hoa, tôi bỗng bùi ngùi nhớ tới những chiếc bút lông cổ bọc sắt tây, hộp sơn 12 tubes Trung Quốc giá 10 đồng mua tại Cửa hàng Văn phòng phẩm phố Tràng Tiền, mà tôi đã dùng để vẽ nên bức tranh sơn dầu đầu tiên của mình. Bức tranh được tôi vẽ trên một miếng vải bao tải đựng gạo, căng trên một châssis tự đóng từ cái thanh treo quần áo sau cánh cửa phòng ngủ nhà tôi tại Hà Nội cách đây gần 40 năm về trước.

Phải chăng đó là phong cách Hà Nội trong tôi?

Nguyễn Đình Đăng,
Những con châu chấu voi bị quên lãng, 2010, sơn dầu, 130 x 162 cm

Lời cảm ơn

Tác giả cảm ơn ông Đinh Trọng Hiếu (Paris) vì đã đọc bản thảo và vì những trao đổi bổ ích, gây hứng khởi khi viết bài này.
Viết xong tại Tokyo, ngày 14/6/2010
© 2010 Nguyễn Đình Đăng

(Bản đăng trên talawas blog và Tiền Vệ ngày 23/9/2010)


Chú giải:

[1] Tham luận gửi hội thảo về “Bản sắc văn hóa Hà Nội trong văn học nghệ thuật thế kỷ XX” do Đại học Mỹ thuật Việt Nam và Nhà xuất bản “Tri thức” tổ chức tại Đại học Mỹ thuật Việt Nam, 42 Yết Kiêu, Hà Nội, ngày 23/9/2010.

[2] Các danh từ riêng gốc Hy Lạp trong bài được phiên âm bằng tiếng Pháp, gốc Latin được giữ nguyên, gốc Hán theo phiên âm Hán-Việt và/hoặc Hán-Nhật có kèm theo nguyên gốc chữ Hán.

[3] Thư Kinh [書經] (T.k. 5 TCN) ̣kể chuyện vua Vũ Đinh [武丁] tức Cao Tông [高宗] (1324 - 1266 TCN, đời nhà Thương chiêm bao thấy Thượng Đế ban cho mình một bậc hiền tài giúp chấn hưng đất nước. Tỉnh giấc, vua gọi hoạ sĩ vẽ đúng người trong mộng để tìm khắp thiên hạ. Ông Duyệt ở cánh đồng Phó Nham, phạm nhân khổ sai, là người duy nhất giống hệt tranh vẽ. Vua triệu về đàm đạo, thấy ông Duyệt là người tài, bèn tha tội và phong làm Tể tướng.

[4] Lâm Ngữ Đường, Hội hoạ Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh hoạ, Trịnh Lữ dịch, Nhà Xuất Bản Mỹ Thuật, 2005.

[5] Nam Man [南蛮](trong đó có dân Bách Việt) ở phía nam Trường Giang, Bắc Địch (Rợ) [北狄] ở phía bắc Hoàng Hà, Đông Di (Triều Tiên, Nhật Bản) [東夷], Tây Nhung [西戎]. Mọi thì ở khắp nơi: Man Rợ, Di Địch, Man Di.

[6] Tương truyền từng có người Việt như Lý Ông Trọng được vua Tần phong làm Vạn Tín Hầu để dẹp giặc Hung Nô. Vì thế những người láng giềng phương Bắc chắc chẳng dám coi thường người xứ ta, “mà có thể vì mình thích làm quan hơn thích vẽ” [Đinh Trọng Hiếu (Paris)].

[7] Truyện Trạng Quỳnh (khoảng thế kỷ 18) có kể chuyện Quỳnh thi vẽ với sứ Tàu. Khi tiếng trống vang lên chưa dứt, Quỳnh nhúng 10 ngón tay vào nghiên mực rồi bôi loằng nhoằng lên giấy, bảo là 10 con giun, trong khi sứ Tàu chưa vẽ xong một con vật. Câu chuyện này nói lên sự nhanh trí của Quỳnh hơn là tài vẽ của ông ta. Ngoài ra Trạng Quỳnh chỉ là một nhân vật hư cấu của một số nho sĩ có lồng ghép các giai thoại đời Tống (thế kỷ 10 - 13) bên Trung Quốc.

[8] Gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) bắt đầu từ t.k. 14 – 15, tranh Đông Hồ (tranh khắc gỗ, từ làng Đông Hồ - Bắc Ninh) - từ t.k. 16, v.v.

[9] Ngoại trừ hoạ sĩ Nam Sơn (1890 – 1973), được Victor Tardieu nhận làm học trò vào khoảng năm 1921 (?), rồi hợp tác với Tardieu trong việc mở trường MTĐD, và được gửi đi tu nghiệp tại Paris (khoảng 6 tháng vào năm 1925) để về khai giảng trường MTĐD (1/10/1925).

[10] Victor Tardieu đã giúp Nguyễn Phan Chánh nghiên cứu các bức hoạ trên lụa của các danh hoạ đời Đường và Tống để tìm ra chất liệu sở trường và phong cách của riêng mình.

[11] “Chơi ô ăn quan” đã được chép lại nhiều lần bởi chính Nguyễn Phan Chánh cũng như nhiều người khác. Hậu quả là có khá nhiều bản “Chơi ô ăn quan” được lưu hành tại Việt Nam cũng như nước ngoài. Một bản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và một bản tại Bảo tàng Nghệ thuật châu Á, Fukuoka (Nhật Bản) đều vốn được coi là “bản gốc”. Thực sự không rõ bản gốc liệu có còn và hiện nay ở đâu.


[13] Xem “Tranh sơn dầu đương đại Việt Nam: Nhiều hoạ sĩ chưa làm chủ kỹ thuật”, Lao Động, 17/11/2008

Tuesday 17 August 2010

Hiền tài là nguyên khí quốc gia: Giáo sư Pierre Darriulat

Nguyễn Đình Đăng

Tiếp theo phản hổi (PH) "Cụ Nguyễn Mạnh Tường", cùng trong một đề tài về vấn đề miền Bắc Việt Nam sau năm 1954, và nước Việt Nam sau 1975 đối xử với người tài như thế nào, tôi có viết một PH cho bài "Chính phủ Việt Nam muốn mời Ngô Bảo Châu về nước làm việc". Dưới đây là phản hồi đó và một số PH liên quan.

*

“Trong cuộc đời làm khoa học, tôi may mắn được làm những gì mình thích trong suốt hơn 40 năm. Đó là đeo đuổi nghiên cứu khoa học phóng xạ của vũ trụ, và luôn bảo đảm sự độc lập, không ràng buộc, nên mới có thể gặt hái được một số kết quả. Thời trẻ, tôi chẳng biết lựa chọn này của mình có đúng không, nhưng 40 năm sau tôi nhận thấy đó là một chọn lựa may mắn. Quyết định sống và làm việc ở Việt Nam cũng đã làm thay đổi số phận tôi, tôi rất hạnh phúc với đời sống riêng của mình, với người vợ Việt Nam. Đó là cơ duyên sâu thẳm nhất khiến tôi gắn bó với đất nước này.”

“Sự thực dụng và ích kỷ đang tạo một lực cản lớn khiến những gì tốt đẹp chưa được thực thi. Thói đua đòi cá nhân nhiều lên khiến mọi người không thể kết hợp cùng nhau để đổi thay đất nước một cách vững chắc. Tranh đấu cá nhân đang triệt tiêu ý thức công dân.”

“Một nhà khoa học phải có quy tắc nhất định trong thẩm định công việc mình làm, không bị ảnh hưởng bởi chính trị và những việc khác.”
Pierre Darriulat
(Trích từ phỏng vấn GS Pierre Darriulat tại Sài Gòn Tiếp Thị.)

Giáo sư Pierre Darriulat (sinh năm 1938) là một nhà vật lý hàng đầu quốc tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp từ năm 1986, đoạt giải thường André Lagarrigue năm 2008 của viện máy gia tốc tuyến tính Orsay.

Từ 1979 – 1987: ông là người phát ngôn của thí nghiệm UA2 nổi tiếng tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) nhằm tìm ra các hạt boson W± và Z0 trong lý thuyết thống nhất tương tác yếu và tương tác điện từ. Từ 1987 – 1994 ông là giám đốc nghiên cứu tại CERN.

Năm 1978 CERN thông qua ý tưởng đặt thí nghiệm tại hai điểm của máy gia tốc Super Proton Synchrotron (SPS) năng lượng 450 GeV để đạt được năng lượng đủ lớn tạo bởi va chạm của các chùm proton và phản proton bay ngược hướng nhau nhằm tạo ra các hạt bosons của tương tác yếu có khối lượng trong vùng 80 – 100 GeV. Thí nghiệm UA1 được đặt tại điểm thứ nhất do Carlo Rubbia, giáo sư đại học Harvard, đứng đầu. Thí nghiệm UA2 được đặt tại điểm thứ hai do Pièrre Darruilat chỉ đạo. Ngày 20 tháng 1 năm 1983 nhóm của C. Rubbia công bố kết quả của 5 va chạm sinh ra các hạt W boson đo được tại UA1. Sáng hôm sau nhóm của P. Darriulat công bố kết quả của 4 va chạm đo được tại UA2. Tháng 5/1983 hạt Z0 cũng được phát hiện. “Vì những đóng góp quyết định vào những dự án lớn đưa đến những phát hiện nói trên” (đặc biệt là ý tưởng dùng SPS của CERN để tạo va chạm giữa proton và phản proton trong cùng một vòng xuyến của máy gia tốc) Carlo Rubbia và Simon van der Meer được trao giải Nobel về vật lý năm 1984.


Từ năm 1998, sau khi nghỉ hưu, giáo sư P. Darriulat đã chuyển hẳn tới Hà Nội sinh sống cùng vợ người Việt. Tại đây ông đã tự tay mình thành lập phòng thí nghiệm vật lý tia vũ trụ đầu tiên của Việt Nam đặt tại Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân (Nghĩa Đô – Hà Nội), đào tạo các người nghiên cứu trẻ Việt Nam về vật lý tia vũ trụ, và lần đầu tiên đưa vật lý thiên văn hiện đại vào giảng dạy tại Đại học Quốc gia Việt Nam.

(Trích từ Lời giới thiệu trong bài “Việt Nam cần các trường đại học và viện nghiên cứu tốt hơn” của P. Darriulat)

Có được một nhà vật lý tầm cỡ giải Nobel như thế thực là vô cùng quý giá cho một quốc gia.

Chưa thấy nhà lãnh đạo hay doanh nhân nào của Việt Nam nào tới sờ chân hay hứa tặng GS Darriulat căn hộ hay biệt thự nghỉ mát.

Wednesday 11 August 2010

Cụ Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Đình Đăng

(Phản hồi tại bài "Ông Trần Văn Tích nên đọc lại Un Excommunié" của Phong Uyên )

Tôi đã định không viết bất cứ một phản hồi (PH) nào cho đề tài liên quan tới cụ Nguyễn Mạnh Tường vì lòng kính trọng rất lớn của tôi đối với cụ. Song tôi thấy có người nhắc đến cả cụ lẫn nguyên giáo sư vật lý Vũ Như Canh nên tôi viết PH này.

Cụ Nguyễn Mạnh Tường từng là thầy học của cha tôi. Bác Vũ Như Canh là bạn thân của cha tôi (Xem “Ông Nomura”).

Ngày cha tôi còn sống cụ Tường và bác Canh là khách thường xuyên của gia đình tôi. Sách của cụ Tường ký tặng cha tôi như “Sourires et larmes d’une jeunesse” và “Pierres de France” được cha tôi cho đóng bìa cứng và khảm chữ vàng để trong thư viện gia đình, và tôi cũng đã từng được đọc. Tôi coi cha mẹ tôi là những người Việt Nam uyên thâm bậc nhất về tiếng Pháp và văn chương Pháp. Song, theo lời cha tôi, tiếng Pháp, hiểu biết về văn chương Pháp, văn hoá Pháp của cụ Nguyễn Mạnh Tường thì “đến tây đầm cũng phải bái phục”, còn “Việt Nam ta xưa nay chưa ai bì kịp”.

Liệu có người Việt Nam nào hiểu văn hoá lịch sử nước Pháp đến mức có thế viết được như cụ Nguyễn Mạnh Tường khi lần đầu tiên đặt chân tới Paris:

Paris, tu n’es pas pour moi une découverte, mais un souvenir” ?
(Paris, đối với tôi Nàng không phải là một phát hiện, mà là một hoài niệm.)

Cha tôi thường kể lại thời “oanh liệt” của cụ Nguyễn Mạnh Tường, cái thời mà xe hơi, xe tay đậu đen kịt trước quảng trường Nhà Hát Lớn trước buổi diễn thuyết của cụ. Cụ bước ra sân khấu, hai ngón tay cái ngoắc vào nách áo gilet, mở đầu bài diễn thuyết (bằng tiếng Pháp) của mình bằng một tràng tiếng Latin. Khán giả, trong đó có rất nhiều “tây đầm” mở sổ tay cắm cúi ghi chép.

Vào thời cụ bị ngược đãi, cụ vẫn hay tới nhà tôi chơi. Vừa vào tới cửa cụ đã sang sảng nói tiếng Pháp với cha tôi. Hình như nói tiếng Pháp một cách hùng biện là nhu cầu bức thiết của cụ. Cụ luôn ăn mặc rất lịch sự: áo vét, áo gilet, cồ áo chemise thắt nơ, song những thứ đó đã ngày càng cũ đi. Có lần, được ngồi gần cụ, tôi thấy nơ của cụ thủng lỗ chỗ.

Khi cha tôi lâm bệnh, nằm liệt giường, cụ vẫn đến thăm. Lần cuối cùng xảy ra không lâu (khoảng 1995 – 1997) trước khi cụ qua đời (1997). Cụ đi xích-lô tới. Anh tôi phải cõng cụ lên cầu thang vì cụ không tự bước lên được. Khi cụ về, anh tôi lại cõng cụ xuống, và định gọi taxi đưa cụ về nhà nhưng cụ nhất định không chịu đi taxi. Cụ nói cụ thích đi xích-lô để còn ngắm phố phường Hà Nội.

Gia đình giáo sư Vũ Như Canh từng có tới chục nóc nhà tại Hà Nội. Tuy nhiên sau năm 1954 bác Canh đã hiến toàn bộ tài sản cho nhà nước, chỉ giữ lại một biệt thự 3 tầng tại phố Nguyễn Gia Thiều nơi bác sống với vợ và bốn con. Có lần tôi nghe kể người ta toan lấy nốt ngôi nhà đó của bác. Khi “chính quyền” đến, bác Canh nói: “Gia đình tôi đã hiến tất cả nhà cửa cho chính phủ. Nay nếu chính phủ muốn lấy nốt ngôi nhà này, thì tôi chỉ đề nghị chính phủ cấp cho một khoảnh vỉa hè trước nhà để tôi cắm cái lều tôi sống.” Từ đó họ không động đến ngôi nhà của bác nữa.

Các ý kiến về cụ Nguyễn Mạnh Tường trên talawas này khiến tôi nhớ tới tiểu thuyết “The moon and sixpence” (Mặt trăng và đồng xu) của W. Somerset Maugham viết về thiên tài Charles Strickland (hình mẫu văn học của Paul Gauguin). Trong khổ đầu tiên của chương 1, Somerset Maugham viết:

The greatness of Charles Strickland was authentic. It may be that you do not like his art, but at all events you can hardly refuse it the tribute of your interest. He disturbs and arrests. The time has passed when he was an object of ridicule, and it is no longer a mark of eccentricity to defend or of perversity to extol him. His faults are accepted as the necessary complement to his merits. It is still possible to discuss his place in art, and the adulation of his admirers is perhaps no less capricious than the disparagement of his detractors; but one thing can never be doubtful, and that is that he had genius. To my mind the most interesting thing in art is the personality of the artist; and if that is singular, I am willing to excuse a thousand faults.

Tôi tạm dịch như sau:

Sự vĩ đại của Charles Strickland là có thực. Có thể bạn không thích nghệ thuật của ông ta, nhưng dù thế nào bạn khó có thể loại nó ra khỏi sự quan tâm của bạn. Ông gây chú ý và khiến ta lo lắng. Đã qua rồi cái thời mà ông bị đem ra chế giễu, và cũng không cần dùng tới sự lập dị để bảo vệ hay tính trụy lạc để tán dương ông. Các lỗi lầm của ông nay đã được chấp nhận như một sự bổ sung cần thiết cho những giá trị của ông. Người ta vẫn còn có thể tranh luận về vị trí của ông trong nghệ thuật, và sự bợ đỡ của những kẻ ngưỡng mộ ông có thể cũng đỏng đảnh không kém sự gièm pha của những kẻ phỉ báng ông; nhưng có một điều không bao giờ có thể nghi ngờ: ông là một thiên tài. Đối với tôi, điều lý thú nhất trong nghệ thuật là nhân cách của nghệ sĩ; và nếu nhân cách đó phi thường, tôi sẵn lòng tha thứ cả ngàn lỗi lầm.


Tokyo, 11/8/2010

Tuesday 8 June 2010

Từ văn hoá xin chữ ký ... đến văn hóa đi đường

Nguyễn Đình Đăng



Đặng Thái Sơn ký tên sau buổi recital tại Kioi Hall (Tokyo) đêm 3/6/2010.
Ảnh: Nguyễn Đình Đăng.

Đêm 3/6/2010 vừa qua danh cầm piano Đặng Thái Sơn đã có buổi recital tại Kioi Hall - phòng hoà nhạc tại Kioi-cho (Tokyo) với 800 chỗ ngồi. Đây là buổi biểu diễn thứ 7 trong tour biểu diễn 10 buổi từ 22/5 tới 12/6/2010 của Đặng Thái Sơn tại Nhật. Chương trình đêm 3/6 mang tên "Chopin's dances" (Các điệu vũ của Chopin), gồm 8 valses, 6 mazurki, boléro, tarantella, polonaise-fantaisie, và polonaise "Héroique". Vé đã bán hết từ vài tháng trước.

Trong giờ nghỉ, Kajimoto Music - công ty âm nhạc tổ chức chương trình biểu diễn của Đặng Thái Sơn tại Nhật - bày một số CD của Sơn tại tiền sảnh phòng hoà nhạc. Chẳng mấy chốc số CD đã được khán giả mua hết. Những ai chưa mua được có thể đặt Kajimoto Music để mua. Sau khi recital kết thúc, người ta mời Sơn ra tiền sảnh để ký CD. Khách xin chữ ký được nhân viên của Kajimoto Music hướng dẫn xếp thành một hàng dài dẫn đến cái bàn Sơn ngồi. Đoàn người đứng người nọ sau người kia rất trật tự, im lặng đợi đến lượt mình. Khi một người tới lượt, tiến đến xin chữ ký và nói chuyện với Sơn, người tiếp theo đứng cách vài bước.



Khán giả Tokyo xếp hàng xin chữ ký của Đặng Thái Sơn tại Kioi Hall (Tokyo) sau recital đêm 3/6/2010.
Ảnh: Nguyễn Đình Đăng.

Còn đây là cảnh người Thăng Long xin chữ ký của Đặng Thái Sơn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội đêm 27/2/2009:



Khán giả nhiều lứa tuổi, trong đó có cả những em nhỏ, ùa vào xin chữ ký của NSND Đặng Thái Sơn sau buổi biểu diễn. Ảnh: Mỹ Dung. (Trích nguyên văn từ www.video4viet.com)

và tại Sài Gòn đêm 26/1/2010:



Sau đêm diễn, khán giả Sài Gòn chen chân xin chữ ký và trò chuyện với anh.
(Trích nguyên văn từ VNExpress)



Một cô bé thần tượng nghệ sĩ Đặng Thái Sơn (cầm cuốn sổ trên tay)
đang cố chen lách giữa đám đông để xin chữ ký danh cầm.
(Trích nguyên văn từ bài tại VNExpress)
*

Hoa anh đào là một trong các biểu tượng về vẻ đẹp của nước Nhật. Hoa thường nở rộ vào cuối tháng 3 đầu tháng 4. Khi đó người Nhật nô nức kéo nhau đi ngắm hoa anh đào, ăn uống nhảy múa dưới gốc cây anh đào nở hoa. Chidorigafuchi - tên hào nước phía đông bắc hoàng thành tại Tokyo - là một trong những điểm xem hoa anh đào đẹp nhất của Tokyo. Người xem rất đông, nhưng trật tự vui vẻ đi theo ... lề trái dưới tán các cây anh đào đầy hoa dọc theo bờ kênh, không ai chen lấn xô đẩy, nói oang oang, cười hô hố, hay xả rác, không một cánh hoa anh đào nào bị ngắt. Trên quãng đường dài khoảng 1 cây số chỉ có 2 - 3 người làm nhiệm vụ giữ trật tự. Không ai bị móc túi, bị đánh, hay bị lôi đi xềnh xệch.



Người Nhật ngắm hoa anh đào tại Chidorigafuchi (Tokyo).
Ảnh: Nguyễn Đình Đăng.

Đến khi vài cây hoa anh đào Nhật Bản được đưa sang dự lễ hội hoa anh đào tại Hà Nội, chúng đã bị người Thăng Long vặt trụi không thương tiếc, liên tục trong 3 năm 2007 - 2009. Tới năm 2010 ban tổ chức buộc phải bãi bỏ trưng bày hoa thật, thay bằng anh đào làm bằng ...lụa.


Xô đẩy, giành nhau “thanh toán” hoa anh đào.
Ảnh: PHẠM HẢI (trích nguyên văn từ Tuổi Trẻ)
*

Có blogger từng nói đại ý những người đi nghe nhạc cổ điển tại phòng hoà nhạc đa số thuộc tầng lớp trung - thượng lưu. Muốn nhìn vào trình độ văn hóa của một xã hội thì nên nhìn vào tầng lớp này. Ngắm hoa anh đào là cái thú không chỉ của giới trung - thượng lưu. Có thể nói không ngoa rằng cách ngắm hoa, thưởng thức vẻ đẹp của hoa phản ánh văn hoá, tính cách của toàn xã hội. Nó bộc lộ hoặc là tính lịch sự tôn trọng người khác, quý trọng thiên nhiên, hoặc thói quen chụp giật, thô bạo, ích kỷ, coi người khác không ra gì. Nếu điều này còn chưa đủ sức thuyết phục đối với quý vị, xin mời quý vị xem tiếp hai hình chụp cảnh đi đường tại Ginza (Tokyo) và tại Hà Nội dưới đây. Hai tấm hình kết thúc bài này phản ánh văn hoá của tất cả mọi tầng lớp nhân dân: văn hóa đi đường. Việt Nam khác Nhật Bản ở chỗ đi theo ... lề phải. Tuy nhiên, như quý vị thấy trong hình, giao thông tại Việt Nam thực sự không theo một lề lối nào hết.



Ngã tư tại Ginza (Tokyo).



Giao thông tại Hà Nội.

Monday 26 April 2010

Trả lời phỏng vấn của NHK World

Chủ Nhật 25/4/2010

Kể từ đầu năm tài chính mới này, cứ mỗi Chủ nhật cuối tháng mời các bạn đón nghe chuyên mục Khách mời, giới thiệu những người Việt Nam và Nhật Bản làm cầu nối giữa hai quốc gia, hoặc có những thành công đáng ghi nhận trong công việc cũng như cuộc sống.

Trong chương trình này, chúng ta cùng gặp gỡ với vị khách mời đầu tiên - Tiến sỹ Vật lý, kiêm họa sỹ tài ba Nguyễn Đình Đăng, hiện đang làm việc tại Viện Nghiên cứu Vật lý - Hóa học Riken, tại Saitama, Tokyo.

Mời các bạn nghe toàn bộ chương trình tại đây.





Từ trái: Nguyễn Đình Đăng, Thu Hằng (NHK World), Thanh Trúc (NHK World), 
và Alec Weil (giám đốc Fazioli Pianoforti) tại triển lãm "Opus 7"